Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông

30/03/200600:00:00(Xem: 5595)
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang vừa được xuất bản. Qúy độc giả có thể mua sách qua internet bằng cách lên Website Google (google.com) đánh máy chữ “ho ledinh”, rồi theo sự hướng dẫn của các websites.]

Hỏi (Ông Trần H. Đ): Bạn gái của tôi về Việt Nam thăm gia đình vì nghe tin mẹ bị bệnh nặng cần phải giải phẩu. Ba tuần sau, trên chuyến máy bay trở lại Úc, bạn gái của tôi bị bắt tại phi trường quốc tế Sydney về tội nhập lậu ma túy vào Úc.
Bạn gái tôi cho biết là vài ngày trước khi trở lại Úc, có một người Việt Nam cùng đi chung chuyến bay đến khách sạn nơi bạn tôi cư ngụ, rồi cho bạn gái tôi biết là cô ta làm nghề chuyển nữ trang cho các đại lý giữa Úc, Hoa Kỳ và VN, nhưng đợt này hàng nhiều quá không thể nào chuyển nổi, nên yêu cầu bạn gái tôi mang hộ một số đồ và sẽ trả tiền hoa hồng. Cô ta bèn đưa cho bạn gái của tôi $4,000 và nói rằng chi tiết sẽ nói rõ sau. Sau đó cô ta mời bạn gái của tôi đi ăn cơm chiều.
Khi trở lại khách sạn, cô ta cho biết rằng cô ta sẽ trả thêm cho bạn gái tôi $8,000 nữa khi các đồ nữ trang đó được mang vào Úc mà không gặp rắc rối với quan thuế.
Cô ta cho biết thêm rằng điều này rất dễ, vì cô đã đi nhiều chuyến như vậy, nhưng chưa lần nào bị phát hiện, vì tất cả những bao cao su đựng nữ trang sẽ được đẩy vào hậu môn.
Sau khi trò chuyện với bạn gái của tôi về cách thức dấu các bao cao su đựng nữ trang vào người. Cô ta bèn lấy địa chỉ của bạn tôi và cho biết rằng số tiền $8,000 còn lại sẽ được trao cho bạn tôi khi mang hàng về Úc và đại diện của đại lý sẽ liên lạc để đến nhà bạn tôi tại Úc để lấy hàng và trả tiền.
Chiều ngày hôm đó, trước khi lên máy bay cô ta đã đến khách sạn để giúp bạn gái tôi cất giấu các bao cao su nữ trang vào cơ thể. Chính mắt bạn gái tôi cũng thấy bản thân của cô ta cũng tự đặt các bao cao su vào cơ thể của cô ta trước khi giúp bạn tôi làm điều đó.
Phần vì ở lâu bên Việt Nam, nên tiền bạc đã cạn gần sạch túi, phần thì mẹ đang hồi phục cần tiền bạc để thuốc thang. Thế là bạn gái tôi đã đồng ý làm theo những lời hướng dẫn và đã trao số tiền $4,000 nhận nhận trước cho gia đình tại VN.
Về đến phi trường quốc tế Sydney, sau khi lục xét và tình nghi là có vận chuyển đồ quốc cấm. Bạn gái tôi đã bị bắt và chụp quang tuyến X. Cảnh sát liên bang đã phát hiện là trong người bạn gái tôi có cất giấu ma túy.
Thế là bạn tôi được chở đến bệnh Viện để bác sĩ làm những thủ thuật cần thiết hầu tống xuất lượng ma túy ra khỏi người của bạn gái tôi qua ngõ hậu.
Sau khi làm xong các thủ thuật, bạn gái tôi đã được đưa về lại đồn cảnh sát Mascos. Tại đây bạn gái tôi bị hỏi cung và bị truy tố về tội nhập lậu ma túy vào Úc.
Bạn gái tôi hoàn toàn không thấy người kia bị bắt hoặc bị lục xét tại phi trường như trường hợp của cô ta. Khi bạn tôi bị bắt tại cổng xét hành lý của quan thuế thì cô ta không thấy người cùng đi ở đâu cả.
Bạn tôi đã khai rõ với cảnh sát những điều này, và cảnh sát đã đưa hình của những người cùng đi trên chuyến bay nhưng bạn tôi không thể nhận ra ai là người đã yêu cầu cô vận chuyển ma túy cả.
Bạn tôi đã ra tòa một lần, nhưng không chịu nhận tội. Tòa đã từ chối đơn xin tại ngoại. Hiện bạn gái tôi đang chờ xét xử.
Xin LS cho biết, nếu bị kết tội bạn gái của tôi sẽ phải ở tù bao lâu" Cô ta năm nay 26 tuổi, và chưa từng gặp rắc rối với pháp luật.

*

Trả lời: Trong vụ R v Auv [2002] NSWCCA 375. Trong vụ đó, vào ngày 19.9.2001, tại tòa án địa phương, bị cáo Chapsaroun Auv đã nhận “tội nhập cảng lượng ma túy có thể buôn bán được dưới dạng bột theo điều 23B(1)(b) của Đạo Luật Quan Thuế 1901” (an offence of importing a traffickable quantity of heroin in powder form under s.23B(1)(b) of the Customs Act 1901).
Vào lúc xét xử, bị cáo được 23 tuổi. Bị cáo là công dân Úc, và chưa bao giờ có tiền án từ lúc trưởng thành.
Lượng bạch phiến mà bị cáo đã mang vào Úc là 242.2 grams. Số lượng này được tính là hơn 120 lần so với “lượng bạch phiến có thể buôn bán được” (trafficable quantity) [2.0 grams] được quy định trong đạo Luật Quan Thuế. Mức độ tinh chất của lượng bạch phiến này là 71% và giá bán trên đường phố là $275,366.
Bị cáo đã cung cấp tin tức mật cho cảnh sát Úc về việc nhận dạng một người khác liên hệ đến việc nhập cảng bạch phiến từ Cambodia vào Úc. Các tin tức mà bị cáo đưa ra là chính xác và đáng tin cậy.
Sau đó bị cáo được chuyển giao cho “Tòa Án Vùng” (District Court) để được xét xử. Vị chánh án tọa xử đã tuyên án bị cáo 8 năm 6 tháng tù, với thời gian thụ hình tối thiểu là 6 năm. Bị cáo bèn kháng án.
Lý do thứ nhất để bị cáo kháng án vì cho rằng bản án quá nặng. Tuy nhiên, Tòa Kháng Án Hình Sự đã cho rằng bản án không quá nặng so với tội trạng mà bị cáo đã phạm phải.
Tòa cũng cho rằng việc hành xử “thẩm quyền tùy tiện” (discretionary power) của vị thẩm phán tọa xử vẫn còn nằm trong giới hạn luật định về “quyền tùy tiện không thể kháng án được” (non-appellable discretion).
“Không có bằng chứng nào chứng minh được rằng bị cáo chỉ là người chuyển tải, vì thế vị thẩm phán tọa xử được quyền xem bị cáo như là chánh phạm” (There being no evidence that the accused was a mere courier, the trial judge was justified in treating him as a principal).
Tòa cũng nhận thấy rằng bản án mà vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra không phạm bất cứ sai lầm nào về phương diện pháp lý cũng như về sự kiện.
Lý do thứ hai và thứ ba của sự kháng án là thời gian thụ hình quá dài so với bản án, vì bị cáo phải thụ hình tối thiểu 6 năm so với bản án 8 năm 6 tháng.
Tòa cũng lưu ý rằng thường thì thời gian phải thụ hình tối thiểu là từ 60% - 66% của bản án, nhưng điều này không nhất thiết là phải như vậy, vì có những trường hợp tòa buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu đến mức 75% của bản án, như trong các vụ R v Stitt (1998) 102 A Crim R 428 và R v Reuben Sweet [2001] NSWCCA 445.
Vì thế, việc vị thẩm phán tọa xử, hành xử quyền tùy tiện để buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 6 năm trong vụ này không thể gọi là một “sự xét xử sai lầm” (miscarriage of justice).
Tuy nhiên, Thẩm Phán Simpson cho rằng bị cáo đã trợ giúp đắc lực cho cảnh sát, hơn nữa bị cáo chưa hề có tiền án, đặc biệt là bị cáo đã đưa ra sự sai lầm của Tòa án Vùng trong việc áp dụng tỷ lệ “thời gian ở tù tối thiểu” (minimum term). Vì thế, Tòa đồng ý giảm án cho bị cáo từ 8 năm 6 tháng xuống còn 7 năm 6 tháng, và giảm thời gian thụ hình tối thiểu từ 6 năm xuống còn 5 năm.
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng ngoại trừ cô bạn gái của ông giúp cho cảnh sát nhận diện được người chủ mưu trong vụ này, bằng ngược lại bạn gái của ông sẽ bị xem như là chánh phạm và hình phạt có thể được áp dụng tương đồng như trường hợp vừa nêu.
Nếu ông còn thắc mắc xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.