Trong ngày 12/4/1975, trận chiến đã quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xã.
Tính đến ngày 12/4/ 1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh) và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT 6 và CT 7, thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân cũng có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công. Tổng chỉ huy lực lượng Cộng quân là Hoàng Cầm, thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 4 Cộng quân; chính ủy của quân đoàn này là Hoàng Thế Thiện.
* Lữ đoàn 1 Dù nhảy vào mặt trận Xuân Lộc
Để có thể đối đầu với 3 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp của Cộng quân, ngày 12 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tung lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến: đó là Lữ đoàn 1 Dù với 4 tiểu đoàn và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.
Với lực lượng tăng viện, tính đến ngày 12/4/1975, lực lượng phòng ngự tại mặt trận Xuân Lộc gồm Sư đoàn 18 Bộ binh với 3 trung đoàn cơ hữu 43, 48, 52, cùng với các đơn vị thống thuộc gồm 1 thiết đoàn kỵ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh 105, 1 tiểu đoàn pháo binh 155 ly; lực lượng tăng phái (có mặt trước ngày trận chiến xảy ra) gồm có: Lữ đoàn 3 Thiết kỵ với 3 thiết đoàn (trong đó có 1 thiết đoàn M 48), Liên đoàn 7 Biệt động quân, 2 tiểu đoàn Pháo binh thống thuộc bộ chỉ huy Pháo binh Quân đoàn 3, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù và Lữ đoàn 1 Dù vừa tăng viện.
Tại ngã ba Dầu Giây, Cộng quân đồng loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của 3 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 52 Bộ binh, kịch chiến đã diễn ra trên từng phòng tuyến. (Vương Hồng Anh tổng hợp).