Lòng nghi ngờ của tôi vào CNCS bắt đầu, là vào năm 1949, khi tôi - lúc đó là ký giả của báo Dân Chủ Mới, của Jacques Duclos - tham dự vụ án Kostov, bí thư đảng CS Bulgarie. Thời gian này, đang xẩy ra những vụ án tương tự tại những xứ sở theo chế độ dân chủ nhân dân. Cho tới lúc d0ó, tôi chưa hề tỏ ra nghi ngờ, về sự phạm tội của những bị cáo. Tôi còn cho in một cuốn sách nhỏ, gồm những lời tự thú của họ. Nhưng trong khi tham dự vụ án trên, người chủ chốt tuyên bố: "Tôi vô tội. Những lời tố cáo chỉ là ngụy tạo". Giọng nói của người đó làm tôi chấn động, và tôi tin. Và từ đó, tôi lần ra những vụ án tương tự.
Giải pháp dành cho tôi thật rõ ràng: Tôi đã có nghi ngờ, như vậy là tôi phải bị khai trừ khỏi Đảng, ngay lập tức. Như vậy, tôi trở thành một kẻ phản bội bào chữa cho những kẻ phản bội.
Hoặc là tôi lặng thinh.
Tôi chọn giải pháp thứ nhì.
Bạn nên nhớ, những người CS, tại Pháp, đại diện cho một [lực lượng] chống xã hội thực sự (un véritable contre-société), với đại học, một hệ thống khung đảng đoàn với những lễ hội của họ, và nhất là một tính liên đới đoàn kết trách nhiệm khủng khiếp. Một khi chọn giải pháp thứ nhất, tôi sẽ phải cắt đứt sự liên đới đoàn kết với những cuộc đình công, xuống đường, tranh đấu cho những người công nhân, những người thợ mỏ: họ là những người anh hùng đối với tôi. Sẽ mất hết bè bạn, bởi vì một khi bị khai trừ, kẻ đó sẽ không còn hiện hữu, trước những bè bạn của mình, đến nỗi, nếu lỡ gặp nhau trên hè đường, họ cũng chẳng thèm chào hỏi. Như vậy, là sẽ phải trở về, như con chó "trở lại với cái đống nôn mửa của nó trước đó", đúng như một hình ảnh của những người CS dành cho những kẻ phản Đảng.
Cần phải nói thêm, một khi là ký giả, một trí thức, tôi còn là tiếng nói (porte-voix) của Đảng, và qua đó, là tiếng nói của tập thể, là ý nghĩa của lịch sử: Chúng tôi, những người Cộng Sản luôn luôn có lý, và không thể nào lầm lẫn. Với chúng tôi, là Cộng Sản nghĩa là tranh đấu cho sự bình đẳng của những người lao động. Đây là điều khác biệt cơ bản giữa Cộng Sản và Phát xít, cái sau vốn dựa trên sự bất bình đẳng.
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy kéo dài hết thời kỳ Giải Phóng ở Pháp, tức cuối năm 1949. Sau đó, tất cả những gì mà tôi biết, về mặt tiêu cực của Liên Bang Xô Viết, tôi coi là một vấn đề riêng lẻ (isolé). Chúng tôi biết, là những xứ sở ở phương Đông, đều có vấn đề kìm kẹp, áp bức, nhưng chúng tôi đều thống nhất với nhau, rằng, bắt buộc phải như vậy thôi, thời kỳ quá độ, thời kỳ phải áp dụng sự "chuyên chế của giai cấp vô sản". Chỉ một thời gian thôi. Những cuộc đình công lớn, tại Pháp và Ý, và cuộc chiến Việt Nam và sau đó, Algérie, càng làm cho tôi thêm tin tưởng, chỉ một thời gian thôi.
Tôi tin tưởng tuyệt đối một điều, là, Staline là một con người rất người (très humain). Nhưng, ngoài một số giai thoại, tôi chẳng có một chứng cớ nào để khẳng định. Tuy nhiên, tôi đã viết một bài báo, "Staline, người người nhất" (Staline, le plus humain des hommes). Khi ông ta chết, tôi tự an ủi, rằng, một cá nhân không làm nên lịch sử.
Quan trọng là, chủ yếu là: bất thình lình, mọi người đều cùng nói! Trong một cuộc viếng thăm Ba Lan, những bạn bè ở đây cho tôi biết, họ đã trải qua nhiều năm trong trại tù và trại cải tạo. Tôi nói, tại sao các bạn không nói lên, trước đây" Hỏi thì hỏi, nhưng tôi thừa biết câu trả lời: chính mình cũng chẳng bao giờ dám cất tiếng nói, chẳng dám đặt ra những câu hỏi.
Cùng với "báo cáo mật" mà Khrouchtchev cho công bố vào năm 1956, tôi hiểu ra, tất cả những gì mà chúng tôi tin là những lầm lẫn của hệ thống pháp lý, những thanh toán, những thảm họa.... chính chúng tạo nên hệ thống, chế độ mà chúng ta gọi là Cộng Sản. Tôi biết, đã tới lúc giã từ. Nhưng cuộc chia tay, cắt đứt đó thật là cay đắng, thật là khó khăn. Đam mê chính trị, nó giống như đam mê tình ái. Người ta cứ cho rằng, mình không biết, không ngờ, thay vì phải thú nhận: vỡ mộng. Nhưng cũng phải đợi đến khi Liên Xô xâm lăng Hungarie, tôi mới bai bai Đảng.
Và tôi đã phải để 12 năm, để viết "Những người Xì Ta Lin Nít" (Les Staliniens, nhà xb Fayard, 1975). Tôi không muốn người ta nói rằng, tôi phản bội.
(Kỳ tới: Khi nào thì bạn ăn phải thuốc lú, và bị lôi cuốn bởi một tư tưởng toàn trị")
Jennifer Tran giới thiệu.
Giải pháp dành cho tôi thật rõ ràng: Tôi đã có nghi ngờ, như vậy là tôi phải bị khai trừ khỏi Đảng, ngay lập tức. Như vậy, tôi trở thành một kẻ phản bội bào chữa cho những kẻ phản bội.
Hoặc là tôi lặng thinh.
Tôi chọn giải pháp thứ nhì.
Bạn nên nhớ, những người CS, tại Pháp, đại diện cho một [lực lượng] chống xã hội thực sự (un véritable contre-société), với đại học, một hệ thống khung đảng đoàn với những lễ hội của họ, và nhất là một tính liên đới đoàn kết trách nhiệm khủng khiếp. Một khi chọn giải pháp thứ nhất, tôi sẽ phải cắt đứt sự liên đới đoàn kết với những cuộc đình công, xuống đường, tranh đấu cho những người công nhân, những người thợ mỏ: họ là những người anh hùng đối với tôi. Sẽ mất hết bè bạn, bởi vì một khi bị khai trừ, kẻ đó sẽ không còn hiện hữu, trước những bè bạn của mình, đến nỗi, nếu lỡ gặp nhau trên hè đường, họ cũng chẳng thèm chào hỏi. Như vậy, là sẽ phải trở về, như con chó "trở lại với cái đống nôn mửa của nó trước đó", đúng như một hình ảnh của những người CS dành cho những kẻ phản Đảng.
Cần phải nói thêm, một khi là ký giả, một trí thức, tôi còn là tiếng nói (porte-voix) của Đảng, và qua đó, là tiếng nói của tập thể, là ý nghĩa của lịch sử: Chúng tôi, những người Cộng Sản luôn luôn có lý, và không thể nào lầm lẫn. Với chúng tôi, là Cộng Sản nghĩa là tranh đấu cho sự bình đẳng của những người lao động. Đây là điều khác biệt cơ bản giữa Cộng Sản và Phát xít, cái sau vốn dựa trên sự bất bình đẳng.
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy kéo dài hết thời kỳ Giải Phóng ở Pháp, tức cuối năm 1949. Sau đó, tất cả những gì mà tôi biết, về mặt tiêu cực của Liên Bang Xô Viết, tôi coi là một vấn đề riêng lẻ (isolé). Chúng tôi biết, là những xứ sở ở phương Đông, đều có vấn đề kìm kẹp, áp bức, nhưng chúng tôi đều thống nhất với nhau, rằng, bắt buộc phải như vậy thôi, thời kỳ quá độ, thời kỳ phải áp dụng sự "chuyên chế của giai cấp vô sản". Chỉ một thời gian thôi. Những cuộc đình công lớn, tại Pháp và Ý, và cuộc chiến Việt Nam và sau đó, Algérie, càng làm cho tôi thêm tin tưởng, chỉ một thời gian thôi.
Tôi tin tưởng tuyệt đối một điều, là, Staline là một con người rất người (très humain). Nhưng, ngoài một số giai thoại, tôi chẳng có một chứng cớ nào để khẳng định. Tuy nhiên, tôi đã viết một bài báo, "Staline, người người nhất" (Staline, le plus humain des hommes). Khi ông ta chết, tôi tự an ủi, rằng, một cá nhân không làm nên lịch sử.
Quan trọng là, chủ yếu là: bất thình lình, mọi người đều cùng nói! Trong một cuộc viếng thăm Ba Lan, những bạn bè ở đây cho tôi biết, họ đã trải qua nhiều năm trong trại tù và trại cải tạo. Tôi nói, tại sao các bạn không nói lên, trước đây" Hỏi thì hỏi, nhưng tôi thừa biết câu trả lời: chính mình cũng chẳng bao giờ dám cất tiếng nói, chẳng dám đặt ra những câu hỏi.
Cùng với "báo cáo mật" mà Khrouchtchev cho công bố vào năm 1956, tôi hiểu ra, tất cả những gì mà chúng tôi tin là những lầm lẫn của hệ thống pháp lý, những thanh toán, những thảm họa.... chính chúng tạo nên hệ thống, chế độ mà chúng ta gọi là Cộng Sản. Tôi biết, đã tới lúc giã từ. Nhưng cuộc chia tay, cắt đứt đó thật là cay đắng, thật là khó khăn. Đam mê chính trị, nó giống như đam mê tình ái. Người ta cứ cho rằng, mình không biết, không ngờ, thay vì phải thú nhận: vỡ mộng. Nhưng cũng phải đợi đến khi Liên Xô xâm lăng Hungarie, tôi mới bai bai Đảng.
Và tôi đã phải để 12 năm, để viết "Những người Xì Ta Lin Nít" (Les Staliniens, nhà xb Fayard, 1975). Tôi không muốn người ta nói rằng, tôi phản bội.
(Kỳ tới: Khi nào thì bạn ăn phải thuốc lú, và bị lôi cuốn bởi một tư tưởng toàn trị")
Jennifer Tran giới thiệu.
Gửi ý kiến của bạn