Nông phẩm đã ứ đọng nhiều nhất, đặc biệt là những nông phẩm được coi như đứng hàng đầu trong lãnh vực xuất cảng như: cà phê, tiêu, hột điều và trà. So với đệ nhất lục cá nguyệt năm ngoái, cà phê xuất cảng đã giảm 15.2%, tiêu giảm 44.2%, hột điều giảm 14% và trà giảm 32.5%, và đậu phọng giảm 34.9%. Với giá của 7 nông phẩm chính tuột trung bình 34%, những nhà xuất cảng đã lỗ 424 triệu Mỹ kim.
Lãnh vực công nghiệp cũng chẳng khá hơn. Thí dụ điển hình, một nhà máy phân bón đã giảm mức sản xuất 8.1% trong sáu tháng đầu năm nay, nhưng hàng tồn kho vẫn tăng 21.8% so với năm ngoái, lên đến mức 200 ngàn tấn - khoảng một phần ba mức sản xuất của toàn quốc.
Hàng tồn kho của xi măng và gạch ngói cũng rất cao, lên đến 1.167 triệu tấn, tăng 21.8%.
Ngoại trừ quần áo và vải vóc đã tăng 12.7%, hầu hết những hàng xuất cảng khác như giày dép, đồ điện tử và máy điện toán, đồ thủ công nghệ đều bị giảm sút.
Những phân tách gia cho biết sự suy giảm đã ảnh hưởng nền kinh tế quốc nội từ mọi phía. Số vốn khổng lồ đã bị kẹt trong hàng tồn kho có nghĩa là giới đầu tư sẽ không còn tiền để tái đầu tư, đem đến tình trạng trì trệ. Kết quả là nhiều công ty phải giảm mức sản xuất trong những tháng vừa qua. Thêm vào với sự kẹt vốn là chu kỳ nợ ngân hàng ngắn hơn, tiền lời tăng, chi phí tăng, tất cả đã làm tổn hại đến hiệu năng và sức cạnh tranh của các công ty.
Những công ty đã than vãn là họ phải giảm mức sản xuất nhưng lại phải trả nhiều hơn cho những món nợ và lương bổng cho nhân viên. Hàng tồn kho thặng dư đã đưa đến tình trạng giảm giá cho giới tiêu thụ càng làm cho các công ty cảm thấy bị sát vốn hơn.
Trong khi đó, những ngân hàng địa phương cho biết là họ cũng bị tổn hại từ sự gia tăng của những món nợ đáo hạn bởi vì những con nợ đang lâm vào tình trạng bế tắc hoặc từ sự sút giảm của những món nợ mới.
Những ngân hàng đã cắt giảm lãi xuất năm lần trong năm nay, nhưng những món nợ mới trong sáu tháng đầu năm nay đã thua xa những trương mục ký thác trong cùng một thời gian.