Sắc tộc Hoa đến Mỹ từ những năm 1849 cùng làn sóng nhập cư tràn vào California tìm vàng khi Mỹ cần nhơn công rẻ. Năm 1870 kinh tế suy thoái, việc làm khó khăn khiến một số người da trắng đổ tội cho người Hoa giành mất việc của họ. Một chiến dịch gọi là Hoàng Họa (Yellow Peril) cấm người Hoa làm một số nghề, cấm nhập cảnh, đến 1920 mới nới lỏng. Đối phó với sự kỳ thị đó, một số người Hoa đi tìm cơ hội mới nơi Miền Đông. Đa số co-cụm tự bảo vệ ở vùng ven đồi và thành lập các phố Trung Hoa. Trong thế chiến 2, do nhu cầu nhân công, Roosevelt bãi bỏ lịnh cấm người Hoa nhập cư và dành một số dễ dãi trong việc vào quốc tịch Mỹ. Từ 1950 trở đi người Hoa bắt dầu thăng tiến để đến 1990 lợi tức đồng niên của gia đình người Hoa là 51,550 đô, cao hơn trung bình chỉ 35,225. Số người Hoa tốt nghiệp Đại học là 40.7%, cao hơn trung bình là 20.3% Dù thành đạt như thế, người Hoa vẫn còn bị kỳ thị và định kiến một phần nào trong xã hội Mỹ.
Nhóm sắc tộc cùng gốc Á Châu với người Việt là người Mỹ gốc Nhựt. Xuất phát từ quần đảo Hawaii, Mỹ sáp nhập 1898 và biến thành tiểu bang 1959, người Mỹ gốc Nhựt đến Mỹ như một nguồn nhân công rẻ. Người da trắng hạn chế nhập cư và cấm người Nhựt sanh ngoài Mỹ nhập quốc tịch. Dù cùng gốc người Á châu, người Nhựt ít bị kỳ thị hơn vì ít hơn người Hoa, hiểu Mỹ nhiều hơn, và chuyên về nghề nông ở cách xa thành thị. Tuy nhiên, vố mà sắc tộc Nhựt chịu năng nhứt là lịnh tập trung cải tạo trong các căn cứ quân sự xa xôi, hẻo lánh sau khi Quân đội Nhựt tấn công Trân châu cảng. Một vết nhơ trong lịch sử của Mỹ, đến nổi Tối cao Pháp viện tuyên bố vi hiến sắc luật của T.T. Roosevelt, và Quốc hội đền bồi 20,000 đô cho mỗi nạn nhân vì tại sao người Mỹ gốc Đức không bị. Và 2/3 số người Nhựt bị tập trung là người sanh tại Mỹ. Sau thế chiến 2, sự phục hồi đáng ngạc nhiên. Năm 1990 lợi tức bình quân gia dình Nhựt 50% cao hơn mức trung bình Mỹ. Và số người Nhựt xuất thân Đại học là 34.5% cao hơn toàn quốc ở mức 20.3% (Trích dẫn US Bureau of Census 1998)
Đúc kết kinh nghiệm hai nhóm sắc tộc lâu đời gốc Á châu và gần gũi với sắc tộc Việt cho thấy giấc mơ Mỹ (American Dreams) có thể thành hiện thực qua bàn tay, khối óc và sự đối phó với kỳ thị.
Dù sắc tộc Việt còn non trẻ trên con đường định cư ở Mỹ, sự hội nhập hy vọng sẽ dễ dàng hơn. Trước nhứt người Việt bản tính cần cù làm việc. Đức tính là được minh chứng qua các bà ngồi cắt chỉ, các ông đứng ủi đồ, 12 giờ một ngày, 7 ngày một tuần và công xá thường là thấp hơn mức lương tối thiểu. Nó nhan nhản ở thương xá, ở xưởng, ở dịch vụ. Quản lý, chủ Mỹ thường thích mướn người Việt, vốn ít cãi lẫy, thưa kiện lôi thôi.
Còn khối óc thì kết quả ở các trường Đại học nói rõ hơn. Sinh viên Mỹ lấy 12 đơn vị tín chỉ gọi là toàn thời gian. Sinh viên Việt ghi 20, học cho lẹ để ra trường đi làm giúp đỡ gia đình. Riêng tại Santa Ana, danh sách học bổng EOPS mỗi mùa 2/3 là Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Do vậy mà số bác sĩ, kỹ sư, nha sĩ, luật sư nếu tính trên 300 ngàn người Việt ở Orange County quả rất cao.
Trở ngại thứ ba mang tính xã hội. Nhà xã hội học Robin Williams (1970) cho biết dù yêu tự do và trọng cá tính, đa số người Mỹ thường đánh giá con người theo giới tính, chủng tộc và giai cấp xã hội (racism và group superiority). Có nhiều sinh viên Việt xong Master (Cao học) tâm tình là không muốn học Ph.D. (Tiến sĩ) vì khó kiếm việc. Ít người Mỹ nào thích bị chỉ huy bởi một anh da vàng, tóc đen, mũi xẹp, mắt xếch! Tôi nghĩ kỳ thị - hành động phân biệt đối xử - đã hết trên phương diện pháp lý (de jure) và thực tế (de facto). Nhưng thiên kiến - thái độ phân biệt (prejudice) hẳn là còn, như Robin Williams nhận xét.
Riêng đứng về mặt chủ thể, người Việt chúng ta vẫn gặp một số điều lợi. Do lịch sử và địa lý, nước ta đã tiếp cận với nền văn minh Tây phương non một thế kỷ và người Mỹ hơn một thập niên. Ta viết chữ Anh bằng 1 thứ chữ La tinh như Mỹ. Đại đa số người đến Mỹ đã từng làm, nói, sống ít nhiều với Mỹ nên dễ hội nhập.
Nhưng trở ngại lớn là ta đến Mỹ thiếu chuẩn bị tinh thần trong cơn vong quốc đột ngột. Tâm lý này ảnh hưởng không ít đến sinh hoạt cá nhân và gia đình kể cả của thế hệ thứ hai. Người ta để ý di dân gốc tỵ nạn hội nhập chậm hơn di dân kinh tế vì trĩu nặng dĩ vãng và hoài bão cố quốc.
Hai sắc tộc giúp ta kinh nghiệm quí báu để thành công là làm việc cần cù và học hành siêng năng. Đất Mỹ không được lót vàng. Vàng là do bàn tay ta cày xới ra, khối óc ta suy tư ra. Ta may mắn hơn sắc tộc Hoa, Nhựt đến Mỹ khi mà quan điểm đồng hóa (melting pot) đã nhường chỗ cho đa văn hóa, khi mà luật pháp từ tu chính án của Hiến pháp đến đơn xin việc đã đề phòng việc kỳ thị chủng tộc. Và người Việt định cư cũng dã được trang bị vốn kiến thức văn hóa Tây phương qua lịch sử cận đại của Đất nước.
Phần còn lại của sự thành công là do bàn tay, khối óc và một chút may mắn của cuộc đời mà chính mỗi một người phải tự chọn lựa lối đi.