Thân Giáo Của Một Thiền Sư
Kính Bạch Chư Tôn Đức
Kính thưa toàn thể Quý vị,
Một Thiền sư VN, đời thứ 44 dòng Lâm Tế ra đi đã để lại những vần thơ như sau:
“Tiễn biệt trần gian như ảo mộng
Thế nhân ta gọi thế nhân ơi
Cho tôi thấy bóng mờ hương khói
Đi đến bờ kia của cuộc đời”
Trong một bài thơ khác có tên “Mộng Ảo”, Ngài viết:
“Người đi vào cõi mênh mông
Bình minh mở cửa dòng sông mây vào
Tháng ngày lãng đãng chiêm bao
Trăm năm sau nữa ai nào nhớ quên”
Ngài đã ví mình như HẠT CÁTvới những câu:
“Ta là hạt cát cỏn con
Muôn năm thế kỷ sắt son một lòng
Biển đời vượt hết long đong
Trần gian ai đọc đôi dòng tâm tư”
Và ở vai trò Thiền sư, Ngài vui chơi trong cõi mộng như:
“Thiền sư đi trên đường
Áo rộng đầy tình thương
Thời gian không níu lại
Cười vang suốt đêm trường”
Sau khi đọc những dòng tâm tư hoa gấm và tha thiết đó, chúng tôi có cảm hứng làm một bài thơ để tưởng niệm Ngài có tên là “HOA KHÔNG TÀN” như sau:
Tiễn đưa Thi sĩ HUYỀN KHÔNG
Nhà thơ MÂY TRẮNG THONG DONG vào đời
LỮ HÀNH CÔ ĐỘC vẫn cười
Ngàn năm để lại thơ tươi còn hoài
Kiếp này chẳng kể ngắn dài
Ra đi lưu bút nhiều bài TÂM CA
Hôm nay người đã đi xa
Tặng Đời thơ đẹp như hoa không tàn”
-Kính thưa Chu Tôn Đức cùng các Đạo hữu,
Ở cái tuổi ngoài Thất thập cổ lai hy, trong đời chúng tôi đã gặp rất nhiều biến cố đặc biệt. Nhưng, có lẽ những lần xúc cảm và rung động nhất vẫn là khi mất một người thân.
Khi một người thân ra đi, tôi thường có hai cái thấy: một là thấy sự xúc động của tâm mình, hai là nhìn thấy nghiệp báo của người ra đi. Cả hai sự quán chiếu này đều giúp cho tôi hiểu về nhân duyên của cuộc sống hơn và trưởng thành hơn trên con đường đi theo bước chân Phật. Sự ra đi của Đại Lão HT Thiền sư Mãn Giác đã khiến cho tôi xúc động nhiều, xúc động đến lặng người. Ngay lúc được tin, cảm xúc đầu tiên là thấy một cái lực vô hình chĩu nặng trong tim, rồi sau đó trở thành bâng khuâng và mất mát. Trước kia tôi coi NGÀI như một Bậc Đạo Sư. Tôn kính giống như các vị Thầy khác. Nhưng, từ ngày tiếp xúc nhiều lần với Ngài, nhất là từ khi chúng tôi dự định thành lập Hội Phật Học và chương trình phát thanh Đuốc Tuệ mới thấy rõ tâm lượng rộng lớn và niềm thiết tha với Đạo Pháp của Ngài. Ngài chính là người nâng đỡ và khuyến khích tinh thần cùng ủng hộ vật chất cho chúng tơi bước đầu cùng với sư bà Diệu Từ mà chúng tôi không bao giờ quên ơn. Chúng tôi có thể nói sự ra đời của Hội Phật Học Đuốc Tuệ là nhờ nơi công đức lớn lao của Ngài. Từ đó, tuy chúng tôi không thường xuyên lên đảnh lễ và thăm viếng Ngài, nhưng giữa chúng tôi và Ngài có một niềm giao cảm vô hình qua một Đạo tình khắng khít.
Trong công việc hộ đạo của chúng tôi, cũng nhờ ở uy đức của Ngài mà HPHĐT đã mời được các thầy, cô giảng pháp, mở ra một phong trào học Phật tại miền Nam Cali này từ hai năm nay. Điển hình là mở đầu với thầy Tâm Thiện. Thầy đã đến với HPHĐT và Phật tử nam Cali qua sự giúp đỡ của Ngài.
Tôi còn nhớ vào năm 2004, chúng tôi hai lần lên chùa VN – Los Angeles mời thầy Tâm Thiện nhưng thầy đều lánh mặt. Đến lần thứ ba thì chúng tôi xin vào gặp thẳng Hoà Thượng để trình bầy ý nguyện, Hoà thượng đã vui vẻ tán đồng và bảo chúng tôi chờ để Ngài cho người đi mời thầy Tâm Thiện lên tiếp kiến. Lần đó tìm thầy cũng không ra nên chúng tôi đành lại về không.
Vì biết chúng tôi có lòng thực tâm hộ Đạo nên Hòa Thượng thương khi thấy vẻ thất vọng hiện lên nét mặt vì không gặp được thầy Tâm Thiện, Ngài nói:“Thôi Mật Nghiêm cứ về đi, hai ngày n"a vào lúc 9 giờ 30 tối chủ nhật, Tâm thiện sẽ lên gặp thầy có việc. Thầy cho số điện thoại của phòng thầy, đúng giờ đó cứ gọi lên, thầy sẽ không bắt phone mà để cho Tâm Thiện bắt, lúc đó thì thỉnh liền.” Tôi đã làm đúng như sự sắp đặt đầy tình thương của Ngài và kết quả là được thầy Tâm Thiện nhận lời. Nhờ đó Đuốc Tuệ mới có được giảng sư Tâm Thiện với những bộ CD giảng pháp như ngày nay.
Trên đây chúng tôi nĩi v" vài nét tâm tình đầy ưu ái của Ngài đối với riêng Đuốc Tuệ, lẽ ra thì phần phát biểu ny có thể chấm dứt bằng 4 câu thơ chúng tôi làm để tưởng niệm Ngài có đầu đề là “QUA CẦU” như sau:
ÔN có bao giờ chết được đâu
Chỉ vừa cởi áo bước qua cầu
Vượt dòng sinh tử sang bờ Giác
Để lại cho đời kỷ niệm sâu”.
Chúng tôi chưa muốn ngừng lời mà muốn nói thêm chút nữa về lòng Từ Bi của Ngài đối với mọi người và thái độ của Ngài đứng trước vấn đề bệnh hoạn và sinh tử. Nh"ng điều tôi sắp kể ra đây là chính do ngài viết trong bài “Có Một Mùa Xuân” đăng trong Đặc san Phật Giáo Việt Nam số 134 vào tháng giêng năm 2006 mừng Xuân Bính Tuất.
V" việc tổ chức lễ sinh nhật cho Ngài, Ngài nói:
“Thật tình là tôi chưa từng tự ý tổ chức cho mình một lễ Sinh Nhật nào vì trong dòng máu Việt, tôi cũng thích niệm tử hơn là niệm sinh. Thế nhưng sau lần mổ tim, nhất là dịp tròn 70 tuổi, những người thương lo và gần gũi tôi nhất muốn cho tôi thm niềm vui sống nên đã mượn ngày sinh làm cái cớ cho những sum vầy thân ái. Từ đó, tôi được dịp chia vui với mọi người và tự nhắc nhở mình phải có được những năm sống thêm đẹp đẽ, hữu ích cho mình, lợi lac cho tha nhân.”
Đọc xong những dòng tâm sự vừa trích dẫn, tôi thấy cảm động đến nghẹn ngào khi biết được rằng Ngài chấp nhận cho tổ chức sinh nhật vì tinh thần lục hòa và để tự nhắc mình những năm sống thêm đẹp đẽ, hữu ích cho mình và lợi lạc cho tha nhân, riêng Ngài, Ngài vẫn thích niệm tử hơn là niệm sinh. Thật là một sự thân giáo tuyệt vời của một bậc Thiền sư .
Bây giờ nói đến thái độ của Ngài đứng trước bệnh hoạn và niềm đau thể xác, Ngài đã tiết lộ thế này:
“Đã có lúc tôi nghĩ năm Ất Dậu (2005) đối với tôi là một năm tốt đẹp nhưng không phải như thế. Từ cuối năm Thân 2004 thân thể trở bệnh, vào ra bệnh viện liên miên. Những người thân thiết với tôi, đôi khi vì quá lo lắng, đã tắt ngúm mọi hy vọng trong lòng và lặng lẽ đợi giây phút tôi được về với Phật. Bệnh tật của thân là một thách thức tinh thần, một xách động tâm lý khiến cho nhiều người sợ hãi, bối rối… đưa đến nhiều bất an cho tâm. Tôi thực sự dửng dưng trước mọi thách đố của thân bệnh, luôn luôn có thái độ chấp nhận. Tôi có cảm giác rằng một số người chung quanh tôi đã đau nhiều hơn nỗi đau tôi đang có. Bất cứ một trạng thái tâm lý yếu đuối nào cũng làm cho bệnh tật thắng thế và do đó, sự hành hạ thân xác và tâm hồn sẽ mãnh liệt hơn. Bởi vì tôi không coi bệnh tật là trở ngại chính cho mọi dự tính hoạt động trong đời thường cho nên tôi đang hưởng một niềm vui của một người đang làm việc. Cũng chính những niềm vui đó giúp tôi làm lành với bệnh và thắng vượt bệnh. Tôi muốn tôi vẫn còn là một thứ năng lượng hỗ trợ cho các vị tăng trẻ trên bước đường sanh hoạt để giữ Đạo, giữ lòng người gần đạo trên chốn đất mới nhiều thách đố nên lúc nào tôi cũng sẵn sàng để có mặt bên cạnh họ.”
Những lời tâm sự trên của Ngài thật là tha thiết đầy tình thương với tâm lượng bao dung lúc nào cũng nghĩ đến những người kế tục con đường để giữ Đạo và hành đạo. Đọc đến đây tự nhiên trong tôi thấy nước mắt lưng tròng. Tôi tưởng nhớ đến Ngài đến lúc mà Ngài nắm tay tôi và hai mắt Ngài đổ lệ. Thì ra Ngài thương tôi, thương cho một kẻ hậu sinh đang dò dẫm trên đường Đạo và lang thang trong sáu nẻo luân hồi.
Ngài đã kết luận bằng đôi lời tâm sự như sau:
“Năm nay, với tuổi 77, tôi vẫn thấy tôi chưa thực sự già lão, nghĩa là chưa cần tới sự nghỉ ngơi. Một ngày không làm… dù là chỉ làm công việc thanh lọc thân tâm …thì có sống cũng cầm bằng như đang ôm một xác chết. Mỗi người, ai cũng sẽ bước t"i dây phút cuối của thọ mệnh mình, giữ niềm tin nơi thọ mệnh ấy và khi phải bỏ thân thì bỏ thân trong sự sẳn sàng với tâm an vui.”
Ngài đã ra đi đúng như lời nói, nhẹ nhàng và lặng lẽ.
Để tưởng niệm Ngài, Đuốc Tuệ xin kính tặng Giác Linh Ngài một bài thơ với đầu đề NHỚ MỘT NGƯỜI ĐI như sau:
Kẻ lữ hành cô độc
Vừa quay dép ra đi
Một đời là thi sĩ
HUYỀN KHÔNG chẳng nói gì
Trọn kiếp làm tu sĩ
Thị hiện cõi Ta Bà
Mắt sanh nhìn cuộc thế
Hỏi đường mây trắng qua
Ta Bà là Cực Lạc
Hóa bướm vờn hoa chơi
Viết thơ bằng tích trượng
Mặt trời hóa nụ cười
Người dù đi hay ở
Chẳng có gì tương can
Vụ trụ này vẩn nở
Chẳng không gian, thời gian
Nhập Pháp thân còn đó
Chẳng nhận dạng hình hài
Đâu còn không với có
Cũng chẳng chấp Liên Đài
Người bước qua cõi mộng
Mộng và thật không hai
Thoát thế gian gió lộng
Hú một tiếng cười dài
Trời Cali hôm nay bỗng nhiên nổi gió. Gió ở ngoài trời và cả trong lòng người, để cùng tiễn đưa Thiền Sư Mãn Giác. Chúng tôi xin thả dòng tâm của mình theo gió bay đi qua bài thơ “Gió” vừa viết xong để thay lời kết:
“Cali trời lộng gió
Khiến cho hoa rụng đầy
Thiền sư nương vào đó
Bay về cuối chân mây
Gió đời là gió nghiệp
Gió thiền tỉnh mê say
Thiền sư đâu thấy có
Nên vỗ một bàn tay
Ô hô ! Trời đẹp nhỉ
Vẫn là nước non này …”
Thiền sư Mãn Giác đã ra đi, nhưng hình bóng Ngài còn mãi trong tâm tư những người ở lại…
California ngày 19 tháng 10 - 2006