Chúng tôi mong nhận được mọi ý kiến đóng góp và bài vở của bạn đọc về mọi vấn đề liên quan đến nhạc cổ điển như ca kịch opéra, ballet, kỹ thuật (recording), album mới, concert bạn mới đi nghe...Thư từ bài vở xin gởi về
Không ai đương thời có thể đạt được tầm vóc với Haydn ngoại trừ Mozart
Nhạc Thời Cổ Điển
Trong khi Bach và Handel vẫn còn đương thời thì đã có một lối nhạc khác đã phôi thai từ đầu thế kỷ 18. Nghệ thuật Rococo lúc đó đang trưởng thành đã hướng âm nhạc dần sang cách hòa âm đơn giản, cơ cấu (texture) trong sáng và thiên về nhạc cụ nhiều hơn. Các nhạc sĩ khởi xướng khuynh hướng này gồm có 2 cậu con trai của J.S. Bach là C.P.E. Bach và J.C. Bach, và Joseph Haydn. Vào cuối thế kỷ này, nhạc của Haydn và Mozart thống trị Âu Châu. Vienna trở thành cái nôi âm nhạc. Thời kỳ này được gọi là thời "Cổ Điển" (Classical).
Hai thể nhạc quan trọng đã được hoàn chỉnh trong thời này là giao hưởng (symphony) và tứ tấu dây (string quartet). Giao hưởng bắt đầu manh nha từ những bản nhạc khai mạc (overture) cho ca kịch (opera) ở Ý vào cuối thế kỷ 17 và thường theo hình thức 3 chương (nhanh-chậm-nhanh). Sau khi qua tay những soạn giả ca kịch Ý như Leo, Pegolesi, Galuppi và Jommelli các chương trở nên dài và hoàn thiện hơn. G.B. Sammartini là một trong những người đầu tiên viết giao hưởng cho thính đường (concert symphony), nghĩa là giao hưởng chỉ để trình diễn trong thính đường (concert hall) chớ không phải để khai mạc một ca kịch như trước kia. Những nhạc sĩ thế hệ kế của Ý như Boccherini và Pugnani tiếp tục phát triển giao hưởng theo khuynh hướng ca hát (lyrical). Nhưng họ đã không tiến xa hơn nữa.
Nhiều nhạc sĩ viết cho thể giao hưởng mới này từ từ xuất hiện khắp nới như Paris, London, miền bắc nước Đức v.v. Nhưng nơi tập trung nhiều nhạc sĩ tài ba nhất là Vienna, Áo và Mannheim, Đức. Khoảng năm 1735 giao hưởng ở Vienna, rút tỉa từ nhạc khai mạc ca kịch và nhạc thính phòng, bắt đầu chuyển theo một hướng riêng sau những tác phẩm của Monn và Wagenseil. Họ và một số người trẻ đương thời tiếp tục thể 3 chương. Nhưng với 4 nhạc sĩ xuất chúng-Hoffmann, Dittersdorf, Vanhal và Michael Haydn (em của Joseph Haydn)-thể giao hưởng 4 chương (nhanh-chậm-vừa-nhanh) với minuet và trio ở chương 3 dẫn đến chương 4 trở thành phổ thông (allegro-andante-minuet, trio-allegro). Tại Mannheim, nơi tập trung nhiều nhân tài, cả về soạn nhạc lẫn nhạc cụ, đã nẩy sinh ra nhiều khai phá mới trong lãnh vực sáng tác cũng như phối khí (orchestration). Chẳng hạn như cách sử dụng cường độ (dynamic) và một lối viết melody gọi là melodic figures. J.W. Stamitz đã thành lập kiểu mẫu cho những nhạc sĩ thế hệ kế tiếp như F.X. Richter, Holzbauer, Fils, Toeschi, Cambich, Eichner, Bech và con trai của Stamitz, Carl.
Với những viên gạch lót đường đó, Franz Joseph Haydn (1732-1809) và Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) đã nâng thể giao hưởng lên một tầm vóc rộng lớn mà những người trước chưa bao giờ đạt được. Joseph Haydn viết tổng cộng 104 giao hưởng theo lối phát triển chủ đề (theme) khéo léo và bất ngờ của ông ta. Tên tuổi của Haydn lừng lẫy khắp Âu Châu, đặc biệt là ở Paris và London, mỗi nơi ông viết 1 loạt giao hưởng theo yêu cầu của các thân chủ quý tộc. Các giao hưởng từ số 82 đến 87 là ở Paris và từ số 93 đến 104 là ở London. Người ta thường gọi hai bộ giao hưởng này là Paris Symphonies và London Symphonies.
Mozart để lại 41 giao hưởng. So với 35 năm thọ thì con số này không phải nhỏ. Các giao hưởng thời ấu thơ (1-13) của ông thường là ngắn (Mozart viết giao hưởng số 1 lúc 8 tuổi. Bốn bài cuối cùng (38-41) là những đỉnh cao của thể giao hưởng trong thời này. Bài số 38 viết năm 1786 tại Prague và vì thế có tên là "Prague Symphony". Bài 39-41 là một bộ mà Mozart viết trong vòng 3 tháng năm 1788. Bài 39 là bài ít được nhắc tới nhất. Bài 40 cung sol thứ là bài được trình diễn nhiều nhất trong tất cả giao hưởng của Mozart. Bài này là một trong ba bài cung thứ hiếm hoi. Bài cuối cùng, số 41 cung đô trưởng, mệnh danh "Jupiter", là một hòn ngọc. Chương cuối bài này gói ghém tất cả tinh hoa âm nhạc. Chương này bắt đầu bằng 4 note đơn giản và khai triển theo thể sonata với những tư tưởng đan quyện vào nhau chặt chẽ. Phần coda là một tẩu khúc (fugue) 5 bè đuổi bắt nhau ráo riết và cuối cùng tóm gọn các ý tưởng trước kia. Đây là một chương nhạc phức tạp vô tiền khoán hậu trong nền âm nhạc tây phương.
Một thể nhạc quan trọng khác phát triển mạnh trong thời này là tứ tấu dây (string quartet). Tứ tấu dây là một thể gồm có 4 chương, viết cho 2 violin, viola và cello. Người ta vẫn chưa rõ tứ tấu dây phát nguyên từ lúc nào, có lẽ trong thời hậu baroque. Nhưng dù sao đi nữa, cho tới khi Joseph Haydn nhúng tay vào thì tứ tấu dây mới có hình dáng hẳn hòi. Với opus 9 (1769-70) Haydn đã ấn định 4 chương cho thể này. Trong opus 33 (1781) ông bắt đầu dùng scherzo. Opus 76 thấy xuất hiện nhiều thí nghiệm mới.
Không ai đương thời có thể đạt được tầm vóc với Haydn ngoại trừ Mozart. Tuy nhiên, thiết tưởng cũng nên nêu tên vài người như Vanhal, Boccherini (mỗi người khoảng 100 tứ tấu) và Ordonez (hơn 30 tứ tấu). Họ đã khiến công việc viết tứ tấu trở nên một sinh hoạt quan trọng. Trong thời gian đầu các tứ tấu của Mozart chịu ảnh hưởng Sammartini với violin 1 "hát" bè chính theo nhịp allegro. Cho đến khi Mozart viết một bộ gồm 6 bài tặng Haydn (1782-85) thì ông mới hoàn toàn viết theo lối phối hợp (integrated style). Những nhạc sĩ Ý như Cambini và Boccherini viết theo lối ca khúc (lyrical style) cho violin 1 phô trương. Các tứ tấu của họ được những nhạc sĩ tại Pháp như Gossec vã Viotti, và Spohr tại Đức học hỏi.
Dĩ nhiên các nhạc sĩ thời cổ điển cũng viết nhiều tác phẩm nhạc cho các thể loại khác như ca kịch, concerto, sonata, mass, v.v. Thật ra thì họ viết quá nhiều. Chỉ trong vòng khoảng 50-60 năm mà họ sản xuất mấy ngàn tác phẩm. Haydn viết 750 tác phẩm. Mozart viết 626 tác phẩm. Đó là chưa kể đến những người khác. Đây là thời mà âm nhạc trưởng thành hoàn thiện nhất so với các thời trước và đã đặt nền tảng vững chắc cho thế hệ mai hậu. Những gì phát huy trong thời này được cho là kinh điển. Vì vậy mà thời này được gọi là thời "Cổ Điển".