(Phát biểu của Lm Phêrô Phan Văn Lợi trên phòng Paltalk: "Đấu Tranh Cho Dân Chủ & Canh Tân VN" Chúa Nhật 23/04/2006 từ 8g AM đến 13g PM giờ <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Kính thưa Quý vị,
Nói về đề tài "Tôn giáo trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ của Việt
Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân gồm những con người và những đoàn thể, gồm những cá nhân và những pháp nhân.
Mỗi một tôn giáo gồm nhiều cá nhân hợp thành một pháp nhân, là một đoàn thể gồm nhiều con người. Thành ra các nhà đối kháng dân sự tranh đấu cho dân chủ thế nào thì các nhà đối kháng tôn giáo cũng tranh đấu cho dân chủ như vậy. Nghĩa là tự do tôn giáo cũng bao gồm những quyền như tự do chính trị, chỉ khác về khía cạnh hay lãnh vực mà thôi, như chúng tôi sẽ giải thích dưới đây. Nói cách khác, tự do tôn giáo và tự do chính trị hay tự do dân sự là hai mặt của cùng một thực thể: thực thể nhân quyền.
Trong thực tế, tại VN hôm nay, nhiều người nghĩ rằng các giáo hội, đặc biệt hàng giáo sĩ tu sĩ, chỉ nên đấu tranh cho tự do tôn giáo, không nên đấu tranh cho tự do dân sự, vì như thế là làm chính trị, một việc nằm ngoài chức năng của nhà tu hành nói riêng và của tôn giáo nói chung. Đi xa hơn nữa, có kẻ còn cho rằng tự do tôn giáo tại VN hôm nay chính là và chỉ cần là tự do tổ chức nghi lễ, tự do xây dựng điện thờ, tự do xuất ngoại tu học, tự do hành hương kính bái. Như thế là đủ rồi, đòi hỏi chi thêm cho rách việc!
Kể ra, những thứ tự do vừa nói đang được nhà nước CSVN ban cho các tôn giáo, dĩ nhiên với giấy phép và nhiều hay ít là tùy nơi và tuỳ người, cụ thể là tuỳ thái độ của từng chức sắc tôn giáo và tùy tính khí của từng đại diện chính quyền địa phương. Chúng ta không chối đây là những quyền tự do, nhưng là những thứ tự do phụ tuỳ, thứ yếu, hay nói cách khác là những hiện tượng chứ không là bản chất của tự do tôn giáo. Bản chất tự do tôn giáo nằm ở chỗ khác.
Vì thế chúng tôi từng trả lời với hai nhân vật ngoại quốc đến thăm chúng tôi là dân biểu Christopher Smith, Hoa Kỳ trong cuộc viếng thăm ngày 03-10-2005 và dân biểu Luke Donnellan, Úc châu, trong cuộc viếng thăm ngày 14-3-2006 rằng:
1- Tự do tôn giáo nằm ở chỗ các tôn giáo được quyền tự thành lập, không với sự cho phép hay chuẩn thuận mà chỉ với sự thừa nhận của chính quyền, nghĩa là chính quyền phải thừa nhận tôn giáo hay giáo hội đó sau khi họ đã thông báo, đăng ký. Điều này tương đương với quyền tự do dấy lên phong trào, tự do thiết lập các hội đoàn, tự do khai sáng những tổ chức phi chính phủ trên phương diện hay lãnh vực dân sự.
2- Tự do tôn giáo nằm ở chỗ các giáo hội được độc lập trong việc thiết lập sắp xếp cơ cấu của mình, tuyển mộ huấn luyện nhân sự của mình, tấn phong thuyên chuyển chức sắc của mình, bổ nhiệm đề cử lãnh đạo của mình. Điều này tương đương với quyền sinh hoạt cách tự do và độc lập của mọi tổ chức, mọi hội đoàn dân sự, tương đương với quyền tự do bầu cử và ứng cử vào mọi cấp điều hành xã hội.
3- Tự do tôn giáo nằm ở việc truyền bá tôn giáo đến nhân dân, việc tham gia của các giáo hội vào đời sống xã hội, bằng cách thành lập và điều hành các trường học đủ mọi cấp, từ nhà trẻ đến đại học, sở hữu và điều hành báo chí, phát thanh, truyền hình, trang mạng, nhà xuất bản riêng, thành lập và điều hành các cơ sở hoạt động từ thiện, chẳng hạn bệnh viện và trại mồ côi. Điều này tương đương với quyền tự do thông tin, ngôn luận, quyền tự do hoạt động cứu tế xã hội, quyền tự do giáo dục của mọi cá nhân và mọi tổ chức dân sự.
Nhưng chúng ta biết rằng Pháp lệnh tôn giáo tín ngưỡng năm 2004 của CSVN đang cản trở 3 quyền tự do tôn giáo cơ bản này, hay nói cách khác chỉ ban cho các Giáo hội các quyền đó cách rất hạn chế với ba cái giá phải trả, một là Giáo hội phải mở miệng xin xỏ thật khiêm tốn và lâu ngày, hai là Giáo hội phải nhượng cho Cộng sản một quyền lợi vật chất như đất đai, cơ sở, tiền bạc hoặc quyền lợi tinh thần như là được xen vào nội bộ, được quyết định tối hậu, ba là Giáo hội phải câm miệng lặng im trước các việc sai trái của nhà cầm quyền CS.
Từ đó ta thấy được ba điều:
1- Trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam, các giáo hội chỉ cần đòi hỏi ba loạt quyền tự do tôn giáo nói trên là đã góp phần vào công cuộc đấu tranh cho dân chủ, vì như chúng tôi đã giải thích, đó thực chất cũng là các quyền dân chủ nhưng khác khía cạnh và lĩnh vực mà thôi. Ở đây tôi xin minh họa bằng chính kinh nghiệm của cha Lý. Khi cha Lý khởi sự cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo cuối năm 2000 tại Nguyệt Biều bằng cách đòi và chiếm lại 3 sào ruộng của giáo xứ, thì chính các tộc trưởng trong làng đã nói với ngài: Cha mà giành lại được đất của giáo xứ thì chúng tôi cũng sẽ bắt chước và sẵn đà mà đòi lại đất hương hoả của họ tộc chúng tôi bị CS chiếm từ 1975.
2- Trong công cuộc đấu tranh này của các tôn giáo, trách nhiệm chủ yếu nằm nơi hàng lãnh đạo cao cấp. Chính hàng lãnh đạo tôn giáo mới có đủ uy thế trước nhà cầm quyền, đủ uy tín trước quốc tế và đủ uy lực trước tín đồ để tiến hành việc đòi lại các quyền tự do đó cho giáo hội mình và từ đó tạo đà cho các tổ chức và cá nhân đòi lại các quyền tự do dân sự của họ. Vì quả thực tại VN hiện nay, chỉ các tôn giáo mới là những tổ chức quần chúng duy nhất mà theo nguyên tắc có thể thoát khỏi quyền kềm tỏa của đảng CS, nhà nước CS và Mặt trận tổ quốc của CS. Chứ ngoài ra, không có đoàn thể quần chúng nào mà không nằm trong cái rọ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ cấu ngoại vi của đảng Cộng sản.
3- Nhưng vì tôn giáo gắn liền với xã hội, con Chúa hay con Phật cũng là con người, và chẳng có gì là của con người mà không làm bận lòng con Chúa con Phật, nên các tôn giáo, song song với việc đòi các quyền tự do tôn giáo cho riêng mình, còn có bổn phận đòi các quyền tự do dân sự cho cho nhân dân nữa, bởi lẽ tôn giáo được coi là người công bố sự thật, cổ xúy sự thiện và bênh vực lẽ phải giữa lòng xã hội. Đạo mà không cứu đời thì đạo với ai, nhất là đời lúc này đang cần được cứu, vì nó đã băng hoại, hư đốn, hỗn loạn, rệu rã, gian manh, tàn ác đến tột cùng rồi. Đạo phải dấn thân vào đời là lúc này đây, để tranh đấu cho quyền con người, chứ cứ nhốt mình trong pháo đài lễ nghi, cơ sở, sinh hoạt thì quả là không thể trở thành men, muối, ánh sáng, quả là vô phương đem đạo vào đời, nghĩa là truyền giáo hay hoằng pháp. Một vị lãnh đạo tinh thần mà để tinh thần của mình bị Cộng sản lãnh đạo, hướng dẫn, biến thành công cụ cho nó, thì mang danh lãnh đạo tinh thần mà chi.
Để kết luận, chúng tôi xin trích lại lời Đức Giáo hoàng Bênêđictô từng nói lúc còn là Hồng y Tổng giám mục trong cuốn sách của ngài có tựa "Muối cho đời". Ngài nói như sau: "Điểm quan trọng đối với tôi là không vì chiều dư luận, hoặc để được dư luận công nhận mà hy sinh chân lý. Nghe theo tiếng lương tâm và sẵn sàng đặt hiểu biết và điều thiện lên trên thị hiếu và dư luận là lý tưởng phải theo. Các Giám mục phải nói lên cái xấu, cái nguy của thời đại, phải nhắc nhở lương tâm những kẻ cầm quyền, những kẻ thờ ơ, hẹp hòi trước nỗi thống khổ của thời đại. Là giám mục tôi thấy có nghĩa vụ phải làm chuyện đó. Tôi nghe vang vọng bên tai những lời của Thánh Kinh và của các giáo phụ kết án rất nghiêm khắc những mục tử làm chó câm để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Tìm yên ổn không phải là bổn phận hàng đầu của công dân; tôi ghê sợ hình ảnh một giám mục chỉ lo an phận và tìm hết cách che đậy và né tránh mọi thứ xung đột. Chính lòng can đảm nói lên sự thật là sức mạnh lớn của Giáo Hội, mặc dù lúc đầu nó có vẻ tác hại, làm mất vẻ dễ mến của Giáo Hội, đẩy Giáo Hội vào chỗ cô lập".
Cuối cùng, tôi xin được cám ơn ban tổ chức, đặc biệt cha Nguyên Thanh, anh Trần Đan Tâm, cùng tất cả các tham dự viên đã vui lòng lắng nghe. Xin TC ban phúc lành cho tất cả Quý vị.
Lm Phêrô Phan Văn Lợi, từ VN, lúc 23g30 ngày 23-4-2006.