Hôm nay,  

GÓC NHẠC CỔ ĐIỂN

22/04/200600:00:00(Xem: 2139)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chúng tôi mong nhận được mọi ý kiến đóng góp và bài vở của bạn đọc về mọi vấn đề liên quan đến nhạc cổ điển như ca kịch opéra, ballet, kỹ thuật (recording), album mới, concert bạn mới đi nghe...Thư từ bài vở xin gởi về

 

classical@vietbao.com

 

Hình bìa CD Carmina Burana, từ tập thơ đầy dục tính và trụy lac thời Trung Cổ, Carl Orff soạn thành ca khúc vào năm 1935. Dàn nhạc Berliner, nhạc trưởng Seiji Ozawa.

 

Nhạc Cổ Điển Thời Trung Cổ

 

Jo Ký

 

Xin chào các bạn.

 

Thời Trung Cổ bắt đầu từ năm 1000 cho đến năm 1400.  Tuy nhạc thời này còn sót lại không nhiều, và chúng ta cũng ít khi nào có dịp được nghe; chúng ta cũng nên bỏ chút thời gian nghiên cứu vì thời này có nhiều phát triển quan trọng nhất về nhạc lý và kỹ thuật hòa âm. 

 

Vào đầu thế kỷ thứ 10, khoảng 1000, Guido d'Arrezo, một tu sĩ người Ý, phát minh ra cách ghi nhạc. Năm 1026 cũng chính ông ta đã phát minh ra  hệ thống các note nhạc (do, re, mi, …) nhằm giúp các tu sĩ nhớ độ cao các note.  Ông gọi hệ thống đó là solfège. Nhạc mà các tu sĩ hát thường là các Grogorian chant.  Gregorian chant là những bài hát trong các buổi lễ tại nhà thờ do Đức Giáo Hoàng Gregory sưu tầm vào khoảng năm 600. Chính vì thế người ta mới gọi các bài hát này là Gregorian chant nhằm vinh danh ông. Gregorian chant luôn luôn viết cho đồng ca nam theo lối đơn giọng, có nghĩa là chỉ có một bè.

 

Năm 1050, Guido d'Arrezo mất. Cũng là thời điểm có nhiều dữ kiện quan trọng khác xảy ra trong lịch sử âm nhạc. Thụ cầm (harp) xuất hiện tại Âu Châu. Cách hát đa giọng (Polyphonic) thay thế Gregorian chant. Cách ghi thời gian trên các note nhạc (duration) được phát minh. Năm 1065, một tu sĩ người Đức thuộc giòng Benedictine tên Wilhelm von Hirsau viết quyển sách đầu tiên về nhạc lý. Năm 1100 nhạc tôn giáo (secular music) thực sự bắt đầu. Cũng trong năm này, trường nhạc tại St. Martial ở Limoges sáng chế lối viết nhạc Polyphonic.

 

Vào khoảng năm 1125 tại Pháp xuất hiện một lối hát tình tứ gọi là troubadour. Troubadour cũng có nghĩa là nhạc sĩ và ca sĩ hát theo lối này.  Thường thì những người này là những kỵ sĩ (knight) đi trận phương xa, mong mỏi một cuộc tình vụng trộm. Phái nữ thường là những phu nhân của các quan viên trong triều đình, hoặc là những tiểu thư đài các và đã có chồng. Các troubadour hay ví von rằng các nàng lấy chồng không xứng hoặc bị ép gả hay hôn nhân được sắp xếp, nhưng lòng lúc nào cũng cầu mong một hiệp sĩ tình lang.

 

Khoảng thập niên 1200, các chủng sinh dòng Benedictine tại Seckau Abbey (chủng viện Seckau) thuộc tỉnh Styria, Ao, viết những bài hát và thơ trụy lạc có ý bêu rêu, giễu cợt các giáo điều Thiên Chúa giáo. Toàn bộ gọi chung chung là "Carmina Burana".  Những bài hát và thơ này được viết bằng tiếng Latin và nhiều thứ cổ ngữ Đức, Pháp khác. Tổng cộng gồm có khoảng 1000 bài hát, chia ra làm sáu tập. Về sau bộ sưu tầm này được khám phá tại Munich.  Năm 1937, Carl Orff (1895-1982), một nhạc sĩ Đức, đã lấy một số bài hát và thơ trong tập này phổ nhạc và cũng lấy tên  Carmina Burana. Có thể nghe tên tác phẩm này bạn không có khái niệm gì nhiều; nhưng tôi dám cam đoan là bạn đã từng nghe qua đoạn "O Fortuna" đâu đó rồi; vì đoạn này rất phổ biến, được dùng trong nhiều phim ảnh và quảng cáo.

 

Hai dạng (form) nhạc khá quan trọng được thành hình trong thế kỷ 13. Dạng Choral Passion được phát triển năm 1250. Dạng Motet được sáng tạo năm 1265 bởi Franco of Cologne và Pierre de la Croix.   Passion là một bài kinh hát kể lể những cực hình của chúa Jesus cho đến lúc bị đóng đinh.  Motet, nói ngắn gọn, là một bài hát có nhiều bè. Nhưng ngoài định nghĩa đó ra, motet bắt đầu kỹ thuật hát đối điểm (counterpoint). Thí dụ như trong khi giọng tenor (nam cao) chính hát bình thường thì giọng soprano (nữ cao) hát một bè khác bay bổng trên cao và hát sai nhịp một chút. Kỹ thuật này gọi là hát chỏi nhịp (discant).  Motet trong thời Trung Cổ bè chính thường là một Gregorian chant gọi là cantus firmus (bài hát đều).

 

Các nhạc cụ phát minh trong thời này gồm có cymbal (chập chõa) - 1200, portatio (organ cầm tay) - 1250, lute (tiền thân của guitar) - 1350, và dulcimer (một loại đàn tương tự như lute) -1400.

 

04, 2006

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.