Như đã thưa trong một bài trước ở Mục "Trước Thời Cuộc " này của Việt Báo, vấn đề Medicare là chuyện dài " nhân dân tự vệ" của hai đảng Dân Chủ và Cộng hoàø, sân khấu là Quốc Hội lưỡng viện Mỹ. Nhưng vấn đề Medicare cũng nói lên tâm lý chung có tánh thực dụng và thực tiễn của cử tri và nhân dân Mỹ nói chung: Đó tưởng thưởng đảng hay người nào làm được việc dù kết quả lớn hay nhỏ, trái lại trừng phạt đảng hay người nào gây cản trở, tạo bế tắc chuyện nước, việc dân dù chánh nghĩa có cao thượng thế mấy đi nữa.
Thực vậy, từ rất lâu cả hai đảng Dân chủ lẫn Cộng Hoà đều đã lợi dụng Medicare để chiếm lòng và lấy phiếu của người già, vốn là khối cử trì khá đông, siêng bỏ phiếu hơn trẻ, và có nhiều thì giờ dùng kính chiếu yêu để xem xét việc làm của những người đại diện dân cử do cử tri qua lá phiếu gởi lên thủ đô, có làm được việc nước, chuyện dân không. Suy cho cùng Luật Cải Tổ Medicare do TT Bush đệ trình Quốc Hội và đã được thông qua và ban hành mới đây, mãi đến năm 2006 mới có tác dụng 100%. Lợi hại cỡ nào, ảnh hưởng bao lớn chỉ có thể đánh giá chính xác sau năm 2006 ấy. Nhưng nghiên cứu lịch sử bầu cử gần đây cho thấy thời TT Clinton, đảng Dân Chủ kiểm soát Quốc Hội với đa số cao ở cả hai viện Thượng lẫn Hạ, nhưng đã thấát bại không thông qua được Luật Cải tổ Y tế năm 1994, dù do chính Bà Clinton dùng hết tín lực để cổ võ và vận động hành lang quyền lực Quốc Hội. Đảng Dân Chủ đa số nhưng không đạt được thoả hiệp với đảng Cộng Hoà lúc bấy giờ là đảng đối lập, nên không đưa ra được phiên họp khoáng đại của Quốc hội, mà để bị nằm chết dí ngay từ trong Uûy ban. Và vì đã không làm được việc, đảng Dân Chủ phải trả một giá rất đắc trong cuộc bầu cử năm 1994. Sau cuộc bầu cử này, Đảng Dân Chủ mất quyền kiểm soát tại cả hai viện của Quốc Hội, lần đầu tiên trong 40 năm. Trong chiến dịch bầu cử năm 1994 ấy, trái lại đảng Cộng Hoa đánh bại đảng Dân Chủ nhờ đưa ra chương trình "Contract With America" gồm 10 dự luật các ứng cử viện Cộng Hoà cam kết sẽ thực hiện nếu kiểm soát được Quốc Hội, trong đó có việc quân bình ngân sách, hà hạn chế số nhiệm kỳ của dân biểu. Cộng Hoà, cố gắng đưa ra được nghị trường Quốc Hội thảo luận hầu hết các dự luật đã hứa. Và năm 1995 trong khi đảng Cộng Hoà đang chiếm đa số ở Quốc Hội, TT Clinton tương kế tựu kế, đổi chiến lược mới để chuẩn bị cho cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 vào 1996 của Oâng. TT Clinton cộng tác với Quốc Hội do Cộng Hoà đang đối lập với Oâng kiểm soát,và thành công trong việc thỏa hiệp thông qua một số dự luật trước đây Oâng chống đối-- trong đó có hai vấn đề lớn là, cải tổ Welfare và quân bình ngân sách. Và dưới cái nhìn của nhân dân và cử tri Mỹ, TT Clinton tỏ ra là một người làm được việc. Nên TT Clinton tái đác cử nhờ ảnh hưởng những đạo luật cộng tác với đối lập Cộng hoà.
Gần đây nhứt mới năm rồi, đảng Dân Chủ đang kiểm soát Thượng Viện, chống dự luật về Nội An Mỹ do TT Bush đệ trình. TT Bush tranh đấu tối đa, cáo buộc các Thượng nghị sĩ Dân chủ nặng tinh thần đảng phái mà xem nhẹ sự an nguy của nhân dân Mỹ. Và sau đó, cuộc bầu cử một phần của Thượng viện, những nghị sĩ Dân chủ chống đối luật Nội An tái ứng cử bị cử tri đào thải; và Đảng Dân Chủ trở lại Thượng Viện với thân phận thiểu số trước việc đảng Cộng Hoà tiến lên kiểm soát luôn Thượng Viện và Hạ Viện.
Tóm lại, vì không làm được việc ( không thông qua được luật Cải tổ Y tế vì không thoả hiệp được với đối lập Cộng hoà) năm 1994 Dân Chủ đang đa số tại Quốc Hội Lưỡng Viện thảm bại để mất quyền kiểm soát Quốc Hội sau 40 năm. Nhờ làm được việc năm 1996 TT Clinton đắùc cử nhờ thoả hiệp được với Cộng Hoà -- đa số ở Quốc hội nhưng đối lập với Hành Pháp -- trong vấn đề Welfare và quân bình ngân sách. Và sau cùng các Thượng nghị sĩ Dân Chủ chống đối gây bế tắc về Dự luật Nội An, đều thất cử. Từ những phân tích có thể suy ra tâm lý chung của cử tri Mỹ. Nhân dân Mỹ bỏ phiếu cho những người đại diện mình lên chánh quyền Liên bang, có những ý muốn rõ rệt. Nhân dân muốn những người đại diện mình làm cho được việc, chớ không phải khoa trương để lấy điểm bằng những lời chỉ trích, phê bình suông đối với đảng Đối lập hầu tên tuổi được "chạy nhựt trình." Nhân dân muốn chánh quyền hoạt động chạy đều, đất nước có tiến bộ, dù kết quả lớn hay nhỏ. Đại diện dân cử nào -- dù Dân Chủ hay Cộng hoà -- có những lời lẽ hay hành động làm trở ngại cho tiến tiến bộ, dù giàu tinh thần đảng phái, cũng bị đào thải. Khối cử tri ở giữa (swing voters) gồm những người xem quyền lợi của nước và dân trên tất cả, đóng vai trò tối quan trọng trong bầu cử, hơn tính đảng nhiều, trong các cuộc bầu cử. Luật cải tổ Medicare của TT Bush đưa ra và thoả hiệp được với Đảng Dân Chủ nhứt định còn nhiều khuyết điểm, nhưng ít nhứt cũng có tiến bộ. Và trong nội vụ đảng Cộng hoà đã làm được việc mà Dân Chủ chưa làm được. Luật Medicare nhứt định không phải tới đây là hết tranh luận. Việc điều hành chiến tranh Iraq không phải tới đây là yên bình. Còn nữa và còn nhiều nữa, nhứt là từ đây cho đến cuộc bầu cử 2004. Nhưng nhân dân cử tri sẽ đánh giá theo tâm lý chung đã phân tích, ai, đảng nào làm được việc sẽ thắng và ai, đảng nào gây cản trở và bế tắc cho tiến bộ sẽ thua.
Thực vậy, từ rất lâu cả hai đảng Dân chủ lẫn Cộng Hoà đều đã lợi dụng Medicare để chiếm lòng và lấy phiếu của người già, vốn là khối cử trì khá đông, siêng bỏ phiếu hơn trẻ, và có nhiều thì giờ dùng kính chiếu yêu để xem xét việc làm của những người đại diện dân cử do cử tri qua lá phiếu gởi lên thủ đô, có làm được việc nước, chuyện dân không. Suy cho cùng Luật Cải Tổ Medicare do TT Bush đệ trình Quốc Hội và đã được thông qua và ban hành mới đây, mãi đến năm 2006 mới có tác dụng 100%. Lợi hại cỡ nào, ảnh hưởng bao lớn chỉ có thể đánh giá chính xác sau năm 2006 ấy. Nhưng nghiên cứu lịch sử bầu cử gần đây cho thấy thời TT Clinton, đảng Dân Chủ kiểm soát Quốc Hội với đa số cao ở cả hai viện Thượng lẫn Hạ, nhưng đã thấát bại không thông qua được Luật Cải tổ Y tế năm 1994, dù do chính Bà Clinton dùng hết tín lực để cổ võ và vận động hành lang quyền lực Quốc Hội. Đảng Dân Chủ đa số nhưng không đạt được thoả hiệp với đảng Cộng Hoà lúc bấy giờ là đảng đối lập, nên không đưa ra được phiên họp khoáng đại của Quốc hội, mà để bị nằm chết dí ngay từ trong Uûy ban. Và vì đã không làm được việc, đảng Dân Chủ phải trả một giá rất đắc trong cuộc bầu cử năm 1994. Sau cuộc bầu cử này, Đảng Dân Chủ mất quyền kiểm soát tại cả hai viện của Quốc Hội, lần đầu tiên trong 40 năm. Trong chiến dịch bầu cử năm 1994 ấy, trái lại đảng Cộng Hoa đánh bại đảng Dân Chủ nhờ đưa ra chương trình "Contract With America" gồm 10 dự luật các ứng cử viện Cộng Hoà cam kết sẽ thực hiện nếu kiểm soát được Quốc Hội, trong đó có việc quân bình ngân sách, hà hạn chế số nhiệm kỳ của dân biểu. Cộng Hoà, cố gắng đưa ra được nghị trường Quốc Hội thảo luận hầu hết các dự luật đã hứa. Và năm 1995 trong khi đảng Cộng Hoà đang chiếm đa số ở Quốc Hội, TT Clinton tương kế tựu kế, đổi chiến lược mới để chuẩn bị cho cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 vào 1996 của Oâng. TT Clinton cộng tác với Quốc Hội do Cộng Hoà đang đối lập với Oâng kiểm soát,và thành công trong việc thỏa hiệp thông qua một số dự luật trước đây Oâng chống đối-- trong đó có hai vấn đề lớn là, cải tổ Welfare và quân bình ngân sách. Và dưới cái nhìn của nhân dân và cử tri Mỹ, TT Clinton tỏ ra là một người làm được việc. Nên TT Clinton tái đác cử nhờ ảnh hưởng những đạo luật cộng tác với đối lập Cộng hoà.
Gần đây nhứt mới năm rồi, đảng Dân Chủ đang kiểm soát Thượng Viện, chống dự luật về Nội An Mỹ do TT Bush đệ trình. TT Bush tranh đấu tối đa, cáo buộc các Thượng nghị sĩ Dân chủ nặng tinh thần đảng phái mà xem nhẹ sự an nguy của nhân dân Mỹ. Và sau đó, cuộc bầu cử một phần của Thượng viện, những nghị sĩ Dân chủ chống đối luật Nội An tái ứng cử bị cử tri đào thải; và Đảng Dân Chủ trở lại Thượng Viện với thân phận thiểu số trước việc đảng Cộng Hoà tiến lên kiểm soát luôn Thượng Viện và Hạ Viện.
Tóm lại, vì không làm được việc ( không thông qua được luật Cải tổ Y tế vì không thoả hiệp được với đối lập Cộng hoà) năm 1994 Dân Chủ đang đa số tại Quốc Hội Lưỡng Viện thảm bại để mất quyền kiểm soát Quốc Hội sau 40 năm. Nhờ làm được việc năm 1996 TT Clinton đắùc cử nhờ thoả hiệp được với Cộng Hoà -- đa số ở Quốc hội nhưng đối lập với Hành Pháp -- trong vấn đề Welfare và quân bình ngân sách. Và sau cùng các Thượng nghị sĩ Dân Chủ chống đối gây bế tắc về Dự luật Nội An, đều thất cử. Từ những phân tích có thể suy ra tâm lý chung của cử tri Mỹ. Nhân dân Mỹ bỏ phiếu cho những người đại diện mình lên chánh quyền Liên bang, có những ý muốn rõ rệt. Nhân dân muốn những người đại diện mình làm cho được việc, chớ không phải khoa trương để lấy điểm bằng những lời chỉ trích, phê bình suông đối với đảng Đối lập hầu tên tuổi được "chạy nhựt trình." Nhân dân muốn chánh quyền hoạt động chạy đều, đất nước có tiến bộ, dù kết quả lớn hay nhỏ. Đại diện dân cử nào -- dù Dân Chủ hay Cộng hoà -- có những lời lẽ hay hành động làm trở ngại cho tiến tiến bộ, dù giàu tinh thần đảng phái, cũng bị đào thải. Khối cử tri ở giữa (swing voters) gồm những người xem quyền lợi của nước và dân trên tất cả, đóng vai trò tối quan trọng trong bầu cử, hơn tính đảng nhiều, trong các cuộc bầu cử. Luật cải tổ Medicare của TT Bush đưa ra và thoả hiệp được với Đảng Dân Chủ nhứt định còn nhiều khuyết điểm, nhưng ít nhứt cũng có tiến bộ. Và trong nội vụ đảng Cộng hoà đã làm được việc mà Dân Chủ chưa làm được. Luật Medicare nhứt định không phải tới đây là hết tranh luận. Việc điều hành chiến tranh Iraq không phải tới đây là yên bình. Còn nữa và còn nhiều nữa, nhứt là từ đây cho đến cuộc bầu cử 2004. Nhưng nhân dân cử tri sẽ đánh giá theo tâm lý chung đã phân tích, ai, đảng nào làm được việc sẽ thắng và ai, đảng nào gây cản trở và bế tắc cho tiến bộ sẽ thua.
Gửi ý kiến của bạn