Sinh thời, Mai Thảo rất thích một câu nói của Mallarmé. "Nếu bọn chiến thắng biết kính trọng đền đài và mộ chí của kẻ chiến bại thì lúc đó họ sẽ được cứu rỗi". Tôi không biết Mallarmé viết hay nói câu trên ở đâu, nhưng ngờ rằng Mai Thảo bị ám ảnh bởi câu đó sau 1975, khi các nghĩa trang của miền Nam bị khai quật hay khai quang, "đất Thánh Tây" Mạc Đĩnh Chi biến thành Công viên Lê Văn Tám. Ông thương tiếc bức tượng "Tiếc thương" của Nguyễn Thanh Thu dựng ngoài cổng chính của Nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại Biên Hòa, nay chỉ còn trong ký ức của những người sống tại miền Nam. Ông thương tiếc ngôi mộ của một Quận công đời Trịnh mạt, thân phụ của bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ, đã bị khai quật, xác bị quăng ra một nơi, xiêm áo tơi tả nhiều mảnh, có lưỡi gươm quý thì bị kẻ đào mồ lấy mất. Sau 1975, ông thấm thía lời thơ của Trần Tế Xương, "sông kia giờ đã nên đồng". Ông ngậm ngùi cho thời của những kẻ đào mồ, cho những ngôi mộ không còn ai chăm sóc.
Tôi nhớ lại những điều đó khi thế giới lên án Hoa Kỳ là vào tới Baghdad mà chỉ lo bảo vệ các công thự liên hệ tới kinh tế hay dầu hỏa, để viện bảo tàng bị thổ phỉ cướp bóc. Tôi không tin rằng kho tàng cổ vật ngàn năm của Iraq đã còn nguyên vẹn trước khi lính Mỹ tiến vào Baghdad. Đồ cổ nếu có ở nơi đó đã được chế độ Saddam Hussein và tay chân chiếu cố từ trước... Nhưng, có mấy nhà khảo cổ hay mỹ học được vào Baghdad để kiểm kê mọi vật trước và sau khi có chuyện đổi đời Tháng Tư tại Iraq, nên lịch sử vẫn ghi lại một cách nôm na là... quân Mỹ để mất cổ vật của Iraq. Tội rất to.
Khi nhân quyền bị chà đạp, không ai nói đến văn minh văn hóa, đến những bản cảo hay di chỉ ngàn năm của nhân loại. Khi chế độ độc tài không còn, và nhân quyền có cơ may hồi sinh, người ta mới nhìn xa hơn, nhìn cao hơn, và nói chuyện về văn hóa muôn đời, và nước Mỹ quá giầu quá trẻ vẫn là kẻ có tội. Không ai nói rằng việc trụ đá Ai Cập được (hay bị) Napoléon khuân về dựng trên quảng trường Concorde là hành động thổ phỉ cấp quốc gia, mà chỉ nhớ đến Paris như Kinh đô của Ánh sáng, của văn hóa nhân loại. Trí nhớ của nhân loại cho những khoảng trống rất kỳ.
Tại thị xã Westminster của miền Nam California, người ta vẫn còn trí nhớ. Sau rất nhiều nỗ lực vận động, gần 30 năm sau biến cố 1975, Tượng đài Chiến sĩ Việt - Mỹ được chính thức khánh thành, vào một cuối tháng Tư. Những người đã nằm xuống - những thanh niên Hoa Kỳ hay Việt Nam - không còn nữa, nhưng lịch sử vẫn ghi lại là ở một nơi nào đó trên địa cầu, có những người không quên sự hy sinh của họ mà dựng lại một tượng đài để ghi ơn.
Những người lính đã nằm xuống đều có lúc nghĩ rằng mình làm việc này vì một lý tưởng cao thượng. Như cho đất nước Việt Nam được có tự do, dân Việt được làm chủ định mệnh của mình, được sống cho ra người. Họ đáng được ghi nhớ và ghi ơn vì việc làm đó, những phê phán đúng sai về chính trị vẫn không thể xóa bỏ được sự thật này. Có một ngày, vào một Tháng Tư dương lịch hay Tháng Bẩy âm lịch, đâu đó trên đất Mỹ này sẽ phải có một tượng đài được dựng lên để ghi nhớ công ơn những người đã hy sinh cho nhân quyền của người khác. Họ đã hy sinh trên chiến trường, trong tù đầy hay ngoài đại dương trùng điệp trên đường vượt biển. Chúng ta thấy điều đó không khó.
Điều khó hơn mà vẫn ở trong khả năng của chúng ta, là tượng đài này còn được dựng ngay tại Việt Nam. Mọi lá cờ xanh đỏ vàng của ngần ấy phe vào từng ấy thời đều được kéo lên trong lời khấn nguyện của mọi người còn lại, và được hỏa thiêu cùng tiếng kinh cầu của chúng ta. Nhân quyền, quyền sống của con người trong phẩm giá, phải lớn hơn mọi khẩu hiệu, đảng cương, hiến chương hay nghị quyết.
Lâu lắm rồi, trong một dịp đi Trung Đông tôi có thấy nhiều ngôi mộ của những người "lính thợ" Việt Nam đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp và bỏ mạng nơi quê người. Họ là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử đen tối của xứ sở. Ngày nay, gia đình con cháu họ có ai biết chăng, mà còn lại những ai sau những năm tháng đổi đời liên tục trong một thế kỷ 20 đằng đẵng" Nhìn từ một quan điểm chính trị, họ là thành phần "tay sai, phản động", nhưng từ quan điểm văn hóa của người Á đông, chúng ta ngậm ngùi cho họ. Cũng như ngậm ngùi cho cảnh "xương trắng Trường Sơn", và những thanh niên Việt Nam "đi B" vì sự nghiệp "giải phóng Tổ quốc", ngơ ngác vào thành phố như những đứa trẻ lạc, nếu chưa bỏ mạng dưới đạn bom.
Những di tích lớn của nhân loại đều xuất phát từ một giấc mơ, đôi khi là giấc mơ xây dựng trên tội ác và thành ác mộng cho nhân loại. Duy có một giấc mơ xứng đáng được tôn vinh, là giấc mơ cải thiện đời sống cho xứ sở trở thành văn minh hơn, đáng sống hơn, cho con người có thể vượt lên mọi động vật khác để sống cho ra người. Đối với người Việt mình, cho đến thế kỷ 21 giấc mơ đó vẫn chưa thành, và chúng ta nhớ ơn những người nằm xuống thì nên cố thực hiện được việc đó, ở trên quê hương mình.
Lúc đó, chúng ta sẽ được cứu rỗi.
Tôi nhớ lại những điều đó khi thế giới lên án Hoa Kỳ là vào tới Baghdad mà chỉ lo bảo vệ các công thự liên hệ tới kinh tế hay dầu hỏa, để viện bảo tàng bị thổ phỉ cướp bóc. Tôi không tin rằng kho tàng cổ vật ngàn năm của Iraq đã còn nguyên vẹn trước khi lính Mỹ tiến vào Baghdad. Đồ cổ nếu có ở nơi đó đã được chế độ Saddam Hussein và tay chân chiếu cố từ trước... Nhưng, có mấy nhà khảo cổ hay mỹ học được vào Baghdad để kiểm kê mọi vật trước và sau khi có chuyện đổi đời Tháng Tư tại Iraq, nên lịch sử vẫn ghi lại một cách nôm na là... quân Mỹ để mất cổ vật của Iraq. Tội rất to.
Khi nhân quyền bị chà đạp, không ai nói đến văn minh văn hóa, đến những bản cảo hay di chỉ ngàn năm của nhân loại. Khi chế độ độc tài không còn, và nhân quyền có cơ may hồi sinh, người ta mới nhìn xa hơn, nhìn cao hơn, và nói chuyện về văn hóa muôn đời, và nước Mỹ quá giầu quá trẻ vẫn là kẻ có tội. Không ai nói rằng việc trụ đá Ai Cập được (hay bị) Napoléon khuân về dựng trên quảng trường Concorde là hành động thổ phỉ cấp quốc gia, mà chỉ nhớ đến Paris như Kinh đô của Ánh sáng, của văn hóa nhân loại. Trí nhớ của nhân loại cho những khoảng trống rất kỳ.
Tại thị xã Westminster của miền Nam California, người ta vẫn còn trí nhớ. Sau rất nhiều nỗ lực vận động, gần 30 năm sau biến cố 1975, Tượng đài Chiến sĩ Việt - Mỹ được chính thức khánh thành, vào một cuối tháng Tư. Những người đã nằm xuống - những thanh niên Hoa Kỳ hay Việt Nam - không còn nữa, nhưng lịch sử vẫn ghi lại là ở một nơi nào đó trên địa cầu, có những người không quên sự hy sinh của họ mà dựng lại một tượng đài để ghi ơn.
Những người lính đã nằm xuống đều có lúc nghĩ rằng mình làm việc này vì một lý tưởng cao thượng. Như cho đất nước Việt Nam được có tự do, dân Việt được làm chủ định mệnh của mình, được sống cho ra người. Họ đáng được ghi nhớ và ghi ơn vì việc làm đó, những phê phán đúng sai về chính trị vẫn không thể xóa bỏ được sự thật này. Có một ngày, vào một Tháng Tư dương lịch hay Tháng Bẩy âm lịch, đâu đó trên đất Mỹ này sẽ phải có một tượng đài được dựng lên để ghi nhớ công ơn những người đã hy sinh cho nhân quyền của người khác. Họ đã hy sinh trên chiến trường, trong tù đầy hay ngoài đại dương trùng điệp trên đường vượt biển. Chúng ta thấy điều đó không khó.
Điều khó hơn mà vẫn ở trong khả năng của chúng ta, là tượng đài này còn được dựng ngay tại Việt Nam. Mọi lá cờ xanh đỏ vàng của ngần ấy phe vào từng ấy thời đều được kéo lên trong lời khấn nguyện của mọi người còn lại, và được hỏa thiêu cùng tiếng kinh cầu của chúng ta. Nhân quyền, quyền sống của con người trong phẩm giá, phải lớn hơn mọi khẩu hiệu, đảng cương, hiến chương hay nghị quyết.
Lâu lắm rồi, trong một dịp đi Trung Đông tôi có thấy nhiều ngôi mộ của những người "lính thợ" Việt Nam đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp và bỏ mạng nơi quê người. Họ là nạn nhân của một giai đoạn lịch sử đen tối của xứ sở. Ngày nay, gia đình con cháu họ có ai biết chăng, mà còn lại những ai sau những năm tháng đổi đời liên tục trong một thế kỷ 20 đằng đẵng" Nhìn từ một quan điểm chính trị, họ là thành phần "tay sai, phản động", nhưng từ quan điểm văn hóa của người Á đông, chúng ta ngậm ngùi cho họ. Cũng như ngậm ngùi cho cảnh "xương trắng Trường Sơn", và những thanh niên Việt Nam "đi B" vì sự nghiệp "giải phóng Tổ quốc", ngơ ngác vào thành phố như những đứa trẻ lạc, nếu chưa bỏ mạng dưới đạn bom.
Những di tích lớn của nhân loại đều xuất phát từ một giấc mơ, đôi khi là giấc mơ xây dựng trên tội ác và thành ác mộng cho nhân loại. Duy có một giấc mơ xứng đáng được tôn vinh, là giấc mơ cải thiện đời sống cho xứ sở trở thành văn minh hơn, đáng sống hơn, cho con người có thể vượt lên mọi động vật khác để sống cho ra người. Đối với người Việt mình, cho đến thế kỷ 21 giấc mơ đó vẫn chưa thành, và chúng ta nhớ ơn những người nằm xuống thì nên cố thực hiện được việc đó, ở trên quê hương mình.
Lúc đó, chúng ta sẽ được cứu rỗi.
27 tháng Tư, 2003.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
Gửi ý kiến của bạn