Hoạt động của Milken tiêu biểu cho một loại tội ác đặc biệt. Đó là tôi ác dân cổ áo trắng (white collar crime) được định nghĩa như tội ác gây ra bởi những người có đia vị xã hội cao trong khi thi hành chức vụ. Tội này ít khi liên quan đến bạo lực nên không có cảnh sát còi hụ, súng ghìm, xuất hiện khi đổ bể, nên công chúng ít chú ý. Vì lẽ đó các nhà xã hội học gọi tội ấy là tội phạm trong văn phòng ( crime in the suites ) để đối chiếu với tội phạm ngoài đường ( crime in the streets) có súng nổ, máu đổ,thịt rơi.
Nhưng hậu quả của tội ác tuy êm đềm trong nhà này rất trầm trọng đối với xã hội nhân quần. Người gây tội, lợi dụng thế lực của cơ quan và tín nhiệm của nhân dân để làm giàu một cách bất hợp pháp cho y và cho những người trợ trưởng y. Thiệt hại vật chất tuy chỉ liên quan đến một số đông người trong cuộc thôi. Nhưng thiệt hai tinh thần đối với xã hội thì khôn lường. Niềm tin của quần chúng đối với các định chế kinh tế, tài chánh-- là điều kiện cốt yếu và căn bản cho mọi giao hoán kinh tế, ký thác tài chánh, ngân hàng, và huy động vốn-- bị sút giảm, hao mòn hay khủng khoảng, tùy trường hợp và thời cơ kinh tế. ( Hagan & Parker, 1985; Vold & Bernard, 1986 ). Bao nhiêu người Mỹ trung bình đã tự tử vì sư phá sản của ngân hàng trong thời Đại Khủng Khoảng. Bao nhiêu công nhân mất tiền hưu liểm cắc ca cắc củm dành dụm gởi trong quỷ 401 K mà Enron quản trị. Giá cổâ phiếu của World Com cách đây 3 năm 64 đồng, nay chỉ còn 84 xu; bao người mất mát, thị trường chứng khoán ảnh hưởng xấu ra sao! Thập niên 1980 chánh quyền Mỹ phải dùng 600 tỷ tiền thuế của nhân dân để bảo chi cho các quỷ tín dụng, hoạt kỳ, và cho vay của các ngân hàng; trung bình một người dân Mỹ không ăn mà phải chịu 2500 đô la ( Weisburd, 1991).
Trách nhiệm sau cùng về những bê bối, những tội ác dân cổ trắng sang trọng trong các nhà hực hở sau cùng thuộc về chánh quyền . Qui trách như vậy vì người dân chỉ biết có chánh quyền là người mà nhân dân ủy nhiệm để làm chủ đất nước. Nhưng chánh quyền thiếu trách nhiệm mới xảy ra các đổ bể. Thứ nhứt là Tư Pháp Mỹ. Thông thường tội ác dân cổ trắng được xem thuộc vấn đề kinh tế, liên quan đến tư nhân nên chỉ đem ra Toà Hộ, chớ không đem ra Toà Hình thẩm quyền liên quan đến trật tự công cộng, quyền lợi xã hội. Thế cho nên người phạm tội ác dân cổ trắng không được xem là phạm nhân hình sự. Khuynh hướng chung của Toà Hộ là chủ mục vào tổ chức, cơ quan nhiều hơn cá nhân phạm tội. Thống kê ghi rõ trong tất cả các vụ kiện biển thủ ngân hàng được Toà Liên Bang xét xử, chỉ có 56% người phạm tội bị kêu án tù, thọ hình ở trại giam; kỳ dư chỉ bị án treo và thử thách (US Bureau of Justice Statistics, 1998).
Thứ hai, nền dân chủ đại diện Mỹ. Dân chủ Mỹ là dân chủ đại diện, tức người dân ủy quyền làm chủ đất nước cho đại diện dân cử. Trong khi đó xã hội Mỹ tài sản phân phối không đồng đều. 5% dân số Rất Giàu ( Upper Rich ) chiếm 50% tài nguyên quốc gia. Trong đó quan trọng nhứt là 100 gia đình người Mỹ Trắng gốc Anglo Saxons theoTin Lành, ( WASP ) chiếm mất 33 % . Còn 40% dân số thuộc loại nghèo suốt đời thiếu nơ. Mà bầu cử Mỹ thì vô cùng tốn kém; chỉ những người giàu, được đảng, tài phiệt ủng hộ mới có cơ may đắc cử. Trong bầu không khí chánh trị đó, liệu đa số người nghèo có tiếng nói và được ai nghe hay không" Chưa đủ, tại hành lang Quốc Hội lúc nào cũng có cả chục sư đoàn ( 75 ngàn người ) chuyên lo chạy chọt cho các đại công ty, các tổ chức quyền lợi đặc biệt. Quyền lợi của dân nghèo dù Tổng thống, dù lương tâm dân biểu, nghị sĩ có sót sa đi nữa cũng không thiết tha bằng việc tái đắc cử. Người dân cử nào mà kông muốn tái đắc cử.
Quyền hành là một bịnh ghiền. Quyền hành tự ø hủ hoá ( Montesquieu ). Tiền lại là yếu tố gần như quyết định trong cuộc bầu cử Mỹ. Những người dân cử chân chính đang lo dân chủ Mỹ bị đa kim ngân phá luật lệ, có đưa ra dự luật cấm ứng cử viên nhận tiền ủng hộ quá mức bình thường của các công ty. Dư luật bị ngâm dấm hàng mấy năm trời, dư luật vẫn còn là dự luật do nhiều người sữ kỹ thuật nghị trường lăng trì thủ tục lập pháp.
Do vậy dân chủ Mỹ là dân chủ pháp trị mà luật pháp lại thiếu để trị đúng mức tội ác dân cổ trắng. Nó cũng thiếu đối với những cơ quan có nhiệm vụ xác nhận kết quả làm ăn và con số công bố của những người phạm tội. Từ vụ Enron, WorldCom, đến Xerox, chính con số ma, lổ nói lời, ít nói nhiều, của các Ngài tổng Giám đốc đã hại công chúng. Công chúng tin lời của họ mua cổ phiếu trong khi những nhà phù thủy kinh tế này lại bán cổ phiếu của họ để chạy làng, làm giàu bất chánh.
Đồng ý triết lý tiên khởi của nhà lập hiến Mỹ là cá nhân chủ nghĩa. "Chánh quyền càng ít càng tốt" (Waldo Emerson). Nhưng nước Mỹ vì tình hình phát triển quốc nội và quốc tế đã, chánh quyền càng ngày càng bành trướng quyền hành.. Chánh quyền chi phối mọi mặt cuộc sống nhân dân thì cũng phải lo phục vụ nhân dân từ khi còn trong bào thai đến lúc nhắm mắt lìa đời ( an sinh xã hội ). Quyền to trách nhiệm phải lớn.. Không lý do gì chánh quyền lại để ai muốn làm gì thì làm ( laissez- faire ) trong vấn đề kinh tế tài chánh, nhứt là trong lãnh vực liên quan đến tín lực đối với quần chúng. Do vậy trách nhiệm sau cùng trong các vụ bê bối gần đây, từ Enron, WorldCom, đến Xerox, và còn nữa, người dân chỉ biết có chánh quyền. Chánh quyền phải ra tay giải quyết và trừng trị các tội ác dân cổ trắng hay là mất niềm tin. Và cá nhân những người dân cử cũng phải mạnh tay hay mất nghiệp.