Khi được hỏi về mục đích của chuyến đi, Lê Quang Vịnh trả lời nguyên văn như sau: “Chuyến đi này của chúng tôi chỉ có một mục tiêu là đấu tranh để xóa bỏ Đạo luật nhân quyền đối với Việt Nam của Mỹ (ĐLNQVN). Chúng ta đã biết ngày 6/9/2001, Hạ viện Mỹ đã thông qua Đạo luật nhân quyền, trong đó có một điều khẳng định rằng ở Việt Nam không có tự do tôn giáo. Điều này đã xúc phạm đến nhân dân và các chính giới Việt Nam. Từ khi Hạ viện Mỹ thông qua ĐLNQVN, nhân dân Việt Nam đã có nhiều phong trào quần chúng chống lại đạo luật này. Đến tháng 10/2001, Thượng viện Mỹ đã thông qua Hiệp định Thương mại mà không đề cập đến Đạo luật nhân quyền, do đó đến tháng 12/2001, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Tuy nhiên, sau khi Quốc hội Việt Nam đã thông qua Hiệp định Thương mại, đến đầu năm 2002, phía Mỹ lại có nhiều sức ép và đòi Thượng viện Mỹ thông qua ĐLNQVN.”
Lê Quang Vịnh cao giọng tuyên truyền biện bạch: “Hiển nhiên là Việt Nam có tự do tôn giáo. Thực tế có nhiều bài báo của các phóng viên quốc tế đã đăng sự thật về vấn đề này. Nhưng cách tốt nhất là đối thoại để phía Mỹ hiểu được, vì vậy phía Việt Nam đã mời Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ sang thăm Việt Nam vào cuối tháng 2/2002. Họ đã được đi Hà Nội, Huế, An Giang và TP. Sài Gòn. Tại đó họ được tạo điều kiện gặp các chức sắc cao cấp tôn giáo theo yêu cầu của họ. Sau đó, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ đã có nhiều phát biểu rất tích cực. Tuy nhiên, đến tháng 4/2002 thì ở Mỹ có một báo cáo về tình hình tự do tôn giáo quốc tế, trong đó có một nửa trang nói về Việt Nam. Lần này, báo cáo của họ tốt hơn so với các báo cáo trước đây, nhưng vẫn có nửa trang lặp lại luận điểm Việt Nam không có tự do tôn giáo và yêu cầu Thượng viện Mỹ thông qua ĐLNQVN. Chính phủ Việt Nam đã cử một đoàn công tác qua Mỹ để đối thoại với chính giới và nhân dân Mỹ về tình hình tôn giáo ở nước ta.”
Tuy nhiên, ông Lê Quang Vịnh quên nói rằng Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Mỹ khi vào VN trong tháng 2 đã bị từ chối gặp các Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ, LM Nguyễn Văn Lý và cụ Lê Quang Liêm.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về thành phần “đoàn đại biểu” lần này, Lê Quang Vịnh khoe khoang như sau: “Rất đáng chú ý là chính các tổ chức tôn giáo Mỹ, đặc biệt là tổ chức GPCS (một tổ chức tôn giáo lớn nhất của nước Mỹ, có đến 50 triệu tín đồ) đã chính thức mời đại diện 3 tôn giáo ở Việt Nam là Phật giáo, Công giáo và Tin lành sang Mỹ để đối thoại. Cuộc đối thoại này rất lý thú và gây những ấn tượng tốt đẹp. Đoàn chức sắc tôn giáo bao gồm những chức sắc cao cấp nhất trong các tôn giáo. Đoàn có 8 người nhưng có 3 vị có học vị tiến sĩ từng du học ở nước ngoài và tinh thông nhiều ngoại ngữ.
Phóng viên nêu câu hỏi “đoàn đã có những hoạt động như thế nào để người Mỹ thừa nhận thực tế tự do tôn giáo ở Việt Nam"”, Lê Quang Vịnh trả lời: ”Các chức sắc tôn giáo đã tranh luận trực tiếp với những chức sắc tôn giáo Mỹ bằng tiếng Anh, rất sôi nổi, rất linh hoạt. Chúng tôi đã đến nhiều nơi, đã gặp các giới chức, các nhân vật cao cấp như đại sứ lưu động của Tổng thống Mỹ, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ về tôn giáo, gặp các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ. Chúng tôi đã tới Tòa nhà Quốc hội và trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ. Chúng tôi đã hội đàm với những người cao cấp trong chính giới của Mỹ. Đặc biệt, trong những cuộc hội đàm như thế chúng tôi phân tích rất rõ rằng không phải là Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam nói hay Bộ Ngoại giao Việt Nam đang nói, mà là các chức sắc cao cấp của tôn giáo ở Việt Nam nói. Họ là các lãnh tụ tôn giáo, với những chứng cớ rất khách quan, rất vô tư và chính xác khiến cho người đối thoại phải trọng nể và bị thuyết phục. Ví dụ như trong ĐLNQVN có những đoạn nói rằng Việt Nam hạn chế tự do tôn giáo, nhưng từng điểm một trong đạo luật đã bị bác bỏ một cách rất hùng hồn với những dẫn chứng rất xác thực. Tất nhiên chúng tôi không đập bàn, đập ghế, không phải đối đầu mà là đối thoại, và đối thoại có tính chất thuyết phục, đối thoại bằng lý lẽ, bằng bằng chứng. Chúng tôi rất mừng là các chức sắc tôn giáo Việt Nam tuy nói hoàn toàn độc lập nhưng họ đã bày tỏ một thái độ như chính họ thừa nhận, là rất yêu nước, đó là một thái độ mà chúng tôi rất cảm động. Và không ai có thể hoài nghi về các chức sắc tôn giáo này, đặc biệt trong đó có những chức sắc mà những đối tác Mỹ nhận là có học chung tại Mỹ.
Khi được yêu cầu cho biết “ấn tượng sâu sắc nhất của mình trong chuyến đi”, Lê Quang Vịnh khoe:” Tôi rất nhớ cuộc họp báo của cả hai đoàn tại Washington. Có 16 nhà báo Mỹ đã tới và họ đã hỏi nhiều vấn đề. Có câu hỏi rất ấn tượng là: “Nhân dân Mỹ rất muốn giúp đỡ cho các tôn giáo ở Việt Nam, vậy nhân dân Mỹ phải làm gì để có thể giúp đỡ tích cực nhất"” Trước câu hỏi như thế, các mục sư, linh mục, hòa thượng đứng lên và đồng thanh nói một câu mà tôi rất cảm động: “Cách giúp đỡ tốt nhất là hãy bỏ cái đạo luật nhân quyền đó đi, đó là cách giúp tốt nhất đối với các tôn giáo tại Việt Nam”. Chúng tôi cũng đã được nghe nhiều chất vấn về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng tất cả mọi câu hỏi có ý nói rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo đã đều bị bẻ gãy một cách rất ấn tượng. Ví dụ như người ta nói rằng Việt Nam hạn chế việc bổ nhiệm các giám mục, chúng tôi liền mở niên giám công giáo Việt Nam ra và chỉ rõ: 80 năm đô hộ của Pháp, Vatican chỉ bổ nhiệm 4 giám mục ở Việt Nam; 30 năm chiến tranh, cuộc kháng chiến lần 1, lần 2, trên cả 2 miền, Vatican bổ nhiệm tất cả 33 giám mục; nhưng trong 25 năm từ 1975 - 2000 thì Vaticang đã bổ nhiệm đến 42 giám mục. 42 giám mục trong 25 năm so với 33 giám mục trong 30 năm và 4 giám mục trong 80 năm thì thử hỏi như vậy Chính phủ CHXHCN Việt Nam đã hạn chế tự do tôn giáo và hạn chế bổ nhiệm các giám mục như thế nào" Câu chuyện là như thế, rất thuyết phục và mọi người đều vui vẻ. Người Mỹ không thể không thừa nhận tự do tôn giáo ở Việt Nam. Còn có những câu hỏi nói rằng bên Phật giáo bị bắt bớ, phía Công giáo bị bắt bớ người này người kia, thì chúng tôi cũng nói rõ, những người đó bị bắt không phải vì lý do hoạt động tôn giáo mà vì lý do hoạt động theo những mục đích khác, mục đích chính trị, quân sự, mục đích bạo loạn và lật đổ. Những mục đích đó thì không thể không bắt được.”
Tuy nhiên, ông Lê Quang Vịnh không giải thích rõ “mục đích bạo loạn và lật đổ” của các Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Độ, LM Nguyễn Văn Lý và cụ Lê Quang Liêm cụ thể ra sao, và nhà nước đã tịch thu được bao nhiêu súng đạn của các vị này.