LTS: Sau một tháng nghỉ hè của Quốc hội Hoa Kỳ, vấn đề Hiệp định Mỹ-Việt WTO bắt đầu trở nên sôi động và sẽ được đem ra bàn thảo tại Thượng và Hạ viện liên bang trong tháng 9 nàỵ Hiện nay, việc cứu xét để Việt Nam được hưởng hưởng Qui chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn (PNTR) đã bị Thượng nghị sĩ Elizabeth Dole chận đứng tại Thượng Viện vì sự phản đối của nghiệp đoàn may dệt Hoa Kỳ cho rằng thỏa hiệp này sẽ làm cho kỹ nghệ này phá sản vì chính sách tài trợ bất hợp pháp và bán phá giá của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra, một số Thượng nghị sĩ liên bang khác cũng yêu cầu hoãn thảo luận qui chế PNTR để giải quyết các vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Song song với nỗ lực buộc CSVN phải cải thiện các vấn đề nêu trên, hai Dân Biểu tiểu bang Lynn Daucher và Trần Thái Văn, đã có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc vận động với các đồng minh chính trị của họ tại Hạ Viện liên bang, đặt các điều kiện rõ ràng về giao thương công bằng hai chiều giữa cộng đồng thương mại Việt tại Hoa Kỳ và Việt Nam trong lãnh vực báo chí, văn hoá phẩm, sản phẩm âm nhạc và các quyền tự do căn bản cho người dân Việt trong nước.
Dân biểu Lynn Daucher và Trần Thái Văn đã gửi 635 lá thư cho các nhà lập pháp liên bang và viết thư can thiệp vấn đề này với Tổ Chức Mậu Dịch Hoa Kỳ (USTR). Đại sứ Karan Bhatia đã chính thức phúc đáp thư của hai vị dân biểu nêu trên, chúng tôi sẽ phiên dịch lá thư của đại sứ Bhatia, dân biểu Lynn Daucher và Trần Thái Văn dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn đặc biệt để trả lời các khúc mắc, nhữ nỗ lực chung của cộng đồng, các vị dân cử tranh đấu cho quyền lợi kinh tế của cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ, cũng như những áp lực buộc CSNV phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo, nhân quyền, thả tù nhân lương tâm còn đang bị giam giữ tại Việt Nam trong khi Quốc hội cứu xét để Việt nam được hưởng Qui chế PNTR trong những ngày sắp đến.
*
Hoa Thịnh Đốn (DC) -- Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa-Kỳ (US Trade Representative Office - USTR) vào cuối tháng 8 vừa qua cho biết là chính quyền Hà-Nội đã thoả thuận cho các công ty Hoa-Kỳ và ngoại quốc khác được nhập cảng sách, sản phẩm âm nhạc, và phim ảnh trực tiếp vào Việt-Nam. Ngoài ra, Việt-Nam sẽ giảm đáng kể thuế nhập cảng đánh vào những sản phẩm này.
Cũng theo sự thoả thuận giữa hai nước, Hà-Nội tiếp tục chỉ cho phép báo (newspapers) và tạp chí (magazines) nhập cảng qua doanh nghiệp nhà nước để dễ kiểm soát. Hoa-Kỳ và Việt-Nam sẽ phải thương thuyết trong vòng đàm phán đa phương về những tiêu chuẩn mà Việt-Nam dự trù sử dụng để hạn chế nhập cảng báo và tạp chí. Tuy nhiên theo USTR, dù thế nào Viêt-Nam vẫn phải tôn trọng luật lệ của WTO về sự minh bạch và công bằng. Việt-Nam không thể tuỳ tiện kỳ thị sản phẩm của Hoa-Kỳ hoặc hành sử một cách không thuần nhất với tiêu chuẩn thương mại.
Một số điểm quan trọng chưa được USTR bạch hóa. Thứ nhất là thời hạn thỏa hiệp bắt đầu có hiệu lực. Việc CSVN xuất cảng sách báo một chiều ra nước ngoài đã lâu cần được chấm dứt càng sớm càng tốt. Theo chuyên viên kinh tế Nguyễn Quốc Khải, có nhiều triển vọng là thoả hiệp sẽ có hiệu lực ngay khi Việt-Nam vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization – WTO).
Điều không rõ ràng thứ hai là công ty Việt-Nam không được đề cập tới. Nếu các công ty Việt-Nam ở quốc nội thực sự bị loại, điều này có nghĩa là chỉ có những công ty ngoại quốc hoạt động tại Việt-Nam mới được phép nhập cảng sách, sản phẩm âm nhạc, và phim ảnh trực tiếp vào Việt-Nam mà thôi. Cũng theo ông Khải, đây là một giới hạn phi lý nếu có cần phải thay đổi.
Thứ ba là thỏa hiệp chỉ nói đến sách (books) mà không đề cập đến những ấn phẩm khác (other printed materials) được liệt kê trong Thỏa Hiệp Thương Mại Việt-Mỹ (US-Vietnam Bilateral Agreement – BTA) ký kết vào 2000, như bưu thiếp, thiệp chúc mừng, các loại lịch (treo tường, để bàn, lịch sách, lịch bloc, v.v.), sách nhỏ để thông tin hay quảng cáo (brochures), tập san chuyên môn (journals), và tập san xuất bản định kỳ (periodicals). Những sản phẩm này cũng cần phải được ghi vào thỏa hiệp WTO.
Thứ tư là cần phải ấn định thời hạn chấm dứt việc hạn chế (phase-out period) đối với báo và tạp chí. Theo ông Khải, một giải pháp có thể được chấp thuận bởi hai bên là sau ba năm, hai loại sản phẩm này cần phải được đối sử như các ấn phẩm thông thường.
Sau hết, theo ô. Nguyễn Quốc Khải, luật lệ về việc buôn bán sách báo, sản phẩm âm thanh, và hình ảnh không những phải minh bạch và cần phải tôn trọng nguyên tắc đối ứng (rule of reciprocity). Điều này có nghĩa Hoa-Kỳ có thể bán cho Việt-Nam những sản phẩm cùng loại đối với những gì Việt-Nam được phép xuất cảng qua Hoa-Kỳ.
Vào buổi thuyết trình tại Văn Phòng Hạ Viện vào ngày 23.06.2006 Đại Sứ Karan Bhatia của USTR đã thừa nhận rằng vấn đề cấm đoán sách báo, phim ảnh tại Việt Nam không nhằm mục đích thương mại, mà mục tiêu chính là để bảo vệ quyền lực của Đảng Cộng Sản. Theo luật WTO, Việt Nam được quyền duy trì xí nghiệp quốc doanh. Như tại một số quốc gia hội viên WTO khác, Việt Nam được phép nhập cảng hàng hóa qua xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên việc hạn chế nhập phải tuyệt đối dựa trên tiêu chuẩn thương mại. Theo ông Bhatia luật lệ WTO rất nghiêm chỉnh về lãnh vực này để tránh vấn đề lạm dụng. Ông cam kết sẽ truy tố Việt-nam ra toà án WTO nếu có sự vi phạm.
Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa-Kỳ được cộng đồng Việt-Nam hải ngoại yêu cầu làm sáng tỏ những điều không rõ trên và tiếp tục thương thuyết với Hà-Nôi về những điểm vừa trình bầy qua sự giúp đỡ của một số các vị dân cử như DB Ed Royce, DB Lynn Daucher và DB Trần Thái Văn.
Lần đầu tiên vấn đề buôn bán một chiều sách báo, sản phẩm âm nhạc, phim ảnh đã được nêu lên vào năm 2004 bởi cộng đồng Việt-Nam ở Hoa Kỳ qua sáu dân biểu Liên Bang thuộc cả đảng Cộng Hòa và Dân Chủ: Frank Wolf (CH, Virginia), Tom Davis (CH, Virginia), Chris Smith (CH, New Jersey), Chris Van Hollen (DC, Maryland), Loretta Sanchez (DC, California), Zoe Lofgren (DC, California).
Thị trường sách báo, sản phẩm âm nhạc, và phim ảnh là một trong những trở ngại đã làm chậm trễ việc hoàn tất thỏa hiệp WTO song phương Mỹ Việt. Nó là một trong những điểm được đem ra bàn cãi vào những buổi họp cuối cùng. Chính phủ Hà-Nội lập luận rằng những sản phẩm này thuôc thẩm quyền của Cơ Quan Văn Hoá Liên Hiệp Quốc (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization – UNESCO). Nhưng dù là sản phẩm văn hoá, sách báo, sản phẩm âm nhạc, và phim ảnh vẫn được trao đổi trên thị trường. Do đó những sản phẩm này bị chi phối bởi luật WTO.
Thay vì kết thúc sớm, thỏa hiệp WTO song phương Mỹ Việt đến cuối tháng 5 mới được hai bên hạ bút ký. Hậu quả là thới gian còn lại rất eo hẹp để Quốc Hội Hoa-Kỳ cứu xét kịp thời cho Việt-Nam hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (permanent normal trade relations – PNTR), một điều kiện để vào WTO một cách bình thường trong năm bầu cử 2006 của Hoa-Kỳ.
Việc chậm trễ trả tự do cho những tù nhân tôn giáo và chính trị là một nguyên nhân khác làm cho Quốc Hội Hoa-Kỳ, nhất là Hạ Viện, trì hoãn lịch trình điều trần dự luật PNTR để chờ phản ứng của Hà-Nội. Điển hình là TNS Sam Brownback đã tuyên bố “Tôi lo ngại rằng một khi không bị áp lực nữa, Việt-Nam sẽ quên ngay vấn đề nhân quyền và tôn giáo.”
Cho đến giờ phút này khó mà có thể tiên đoán được Việt-Nam có vào WTO kịp thời trong năm nay hay không. Hà-Nội cần phải thực tế hơn trong việc đàm phán với Hoa-Kỳ. Nếu chỉ dựa vào khả năng ngoại giao của bà Tôn Nữ Thị Ninh, Việt-Nam sẽ không đủ hiệu lực để chuyển hoá vấn đề.