LTS: Bài sau đây của Tiến Sĩ Ngô Huy Liêm, từ Hà Nội gửi cho Việt Báo, phân tích về nhu cầu gia nhập WTO. Tòa soạn trân trọng cảm ơn đóng góp của Tiến Sĩ về một vấn đề đang khẩn thiết đối với đất nước. Bài như sau.<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Cụm từ WTO xuất hiện ngày càng nhiều trong cuộc sống của người Việt <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Thế WTO là gì"
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Organization) trụ sở đặt tại Genevơ (Thuỵ Sỹ). WTO được thành lập theo hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới ký tại
WTO (với 148 thành viên đến cuối 2005 ) là nơi đề ra các quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. WTO cũng còn là một diễn đàn để các thành viên đàm phán, thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… để giải quyết nhuwnwgx vấn đề phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt
Việt
Ngày 1/1/1995 Việt
Tính đến cuối năm 2005 Việt Nam đã trả lời trên 2600 nhóm câu hỏi từ các thành viên của WTO và đã kết thúc đàm phán song phương với 21 đối tác.
Cuộc đàm phán đến giờ phút này hãy còn tiếp tục…
Tham gia WTO có những tác động gì đến nền kinh tế xã hội đất nước"
Quan điểm chung:
Nhìn từ góc độ lý thuyết và thực tế thì ta thấy có những tác động tĩnh, nghĩa là tham gia và WTO sẽ nâng cao hiệu quả của các nguồn lực (vốn, lao động, công nghệ…) và điều này tích cực cho cả nước. Ngoài ra còn có những tác động động, nghĩa là chuyên môn hoá được nâng cao, học thong qua hành sẽ được đẩy manh. Tác động động này tuy có xảy ra nhưng thực chất thì chưa rõ ràng. Nói chung các tác động lý thuyết tích cực hay tiêu cực, rõ ràng hay chưa rõ rang còn tuỳ thuộc vào các giả dịnh đạt ra trong các mô hình tính toán.
Các nhà kinh tế các nước tư bản có nền kinh tế hiện đại thường đành giá việc gia nhập WTO là có lợi chung cho cả nước về trung hạn và dài hạn. Họ thường lấy ví dụ Đài Loan, Trung Quốc, Đại hàn để chứng minh điều này. Tuy nhiên trong thời gian WTO nhóm họp tại Seatlle, HongKong vừa qua, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra, đấy cũng là nói lên một trường phái chống đối việc gia nhập WTO, lý do là nhóm này cho rang, toàn cầu hoá, gia nhập WTO chỉ có lợi cho các nước giàu, cho các công ty đa quốc gia mà thôi, các nước đang phát triển sẽ bị lệ thuộc đến mất chủ quyền về mặt chính trị lẫn kinh tế…
Một lý do khác là các tổ chức quốc tế như Ngân hang thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới… đã đưa ra những con số dự báo về lợi ích cho các nước đang phát triển không mấy gì là thuyết phục cho lắm, nhiều khi còn trái ngược nhau. Năm 2003 trước khi Hội nghị WTO Cancun bắt đầu, NHTG đưa ra con số sau: Thương mại toàn cầu sẽ đem lại lợi ích $832 Tỷ USD (trong đó các nước đang phát triển sẽ hưởng lợi khoảng $539 Tỷ USD). Nhưng khi đến Hội nghị
Một điều cần nhắc đến là các nhóm chống đối trên không nhìn các nước đang phát triển một cách chung chung, và họ cũng phân biệt là trong các nước đang phát triển, Trung quốc, Việt
Hai trường phái ủng hộ và chống đối sẽ tiếp tục tồn tại trong nhiều thập kỷ tới. Tuy nhiên đối với Việt
Đối với Việt Nam nói riêng phải nhận thấy rằng số lượng tài sản vật chất, tiện nghi trong mỗi gia đình cũng như mức sống và các dịch vụ khám chữa bênh, học hành, thể thao… của người dân chủ yếu được nâng cao trong khoảng 10-15 năm trở lại đây. Đó chính là những thành tựu của quá trình mở của, hội nhập nền kinh tế Việt
Gia nhập WTO đối với nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng là một điều tất yếu, không dặt ra vấn dề “vào hay không vào” WTO. Vấn đề đặt ra là vào WTO, Việt Nam và các doanh nghiệp được lợi gì, mất gì và làm thế nào đê tranh thủ được lợi ích, giảm thiểu khó khăn, nguy cơ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO"
Lợi ích chung:
Trước hết Việt
Khi gia nhập WTO và với tác động của toàn cầu hóa, hiệu quả phân bổ nguồn lực sẽ cao hơn dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao và ổn địng. Nếu trong quá trình 15 năm qua, kết quả giảm nghèo ỏ Việt Nam gắn liền với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thì tăng trưởng do việc gia nhập WTO cũng sẽ có tác động tích cực đến mục tiêu giảm nghèo.
Cụ thể hơn, tác động là tích cực do:
• Tiền công của nhóm lao động không có hoặc có ít kỹ năng do mở rộng xuất khẩu sản phẩm có hàm lương lao động cao; đó cũng là phát huy lợi thế so sánh của Việt
• Khu vực nông nghiệp (nơi tập trung người nghèo) có cơ hội phát triển. Nhiều nứoc trước đây theo đuổi chính sách bảo hộ và thường “hy sinh” nông nghiệp để công nghiệp hoá.
• Hành vi “tìm kiếm đặc lợi” giảm nhanh và như thế cơ hội đàu tư vào các ngành tạo nhiều việc làm;
Lợi ích và khó khăn thách thức đối với doanh nghiệp:
Lợi ích của doanh nghiệp khi Việt
Mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp.
Tính đến tháng 10 năm 2005, WTO chiếm trên 85% tổng thương mại hang hoá và khoảng 90% tổng thương mại toàn cầu. Nhờ tư cách thành viên của WTO, doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu vào toàn bộ vào 148 nước thành viên của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có một số thị trường truyền thống (Nga, Đông âu) và 1 số thị trường mới khai thác (Mỹ, Nhật bản, EU). Trên đây là tăng số lượng thị trường; ngoài ra còn có tăng sản lượng xuất khảu ra nước ngoài. Ngoài ra còn tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt
Nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẵng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế;
Tiếp cận bình đẵng vào thị trương các nước thành viên : các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành viên WTO, hang hoá Việt Nam được tiếp cận bình đẳng vào các thị trường của 148 thành viên WTO, không bị chèn ép, đối xử không bình đẳng khi Việt Nam chưa là thành viên. Ví dụ: một nước khi đã là thành viên thì được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với hang nhập khẩu của nước khác trong việc thực hiện Hiệp định Nông nghiệp.
Bảo hộ sản xuất trong nước theo các khuôn khổ quy dịnh của WTO: các doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ tiến hành điều tra về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bảo hộ theo quy định của Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng.
Hưởng lợi từ các chính sách cải cách trong nước
Việt
* Tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đây là lợi ích rõ và có lẽ là được mong đợi nhiều nhất. Vốn đầu tư, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, quản trị kinh doanh của các nhà đầu tư, các tập đoàn ngoại quốc sẽ là những tác nhân quan trọng trong quá trình sản xuất, đẩy mạnh thị trường, tạo việc làm.
Tuy nhiên việc này cũng sẽ kéo theo một loạt vấn đề lien quan đến quy hoạch khu sản xuất. Điều này là tất yếu, song cũng cần phải cân đối lợi ích giữa lợi ích kinh tế/kỹ thuật và lợi ích xã hội (nông dân mất đất do việc lấy đất để xây các khu công nghiệp.. mà sau đó lại không có việc làm hoặc không có định hướng đầu tư từ số tiền được đền bù).
Tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý quản trị kinh doanh, tiếp thị, xây dựng thương hiệu của nước ngoài.
Kiến thức này rất là quan trọng trong việc duy trì và phát huy lợi ích một cách bền vững.
Qua đây các doanh nghiệp sẽ tiếp thu được nhanh hơn một số kỹ năng như phân tích thong tin xuất khẩu quốc tế, nhận định về tiềm năng chiến lược của các đối tác nước ngoài, xem xét chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm..v.v…
Và để phát huy lợi ích này các doanh nghiệp cần phải tập trung vào nâng cao năng lực cho chính bản thân mình và đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, hiểu biết các chính sách, luật lệ quốc tế, khả năng thao tác máy tính, ngôn ngữ, ngoại ngữ cũng như phong tục tập quán văn hoá…
Bên cạnh những cơ hội nêu trên nền kinh tế Việt
Nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường:
Điều này không thể xem nhẹ được. Cơ hội cho doianh nghiệp Việt
Nguy cơ bị các doanh nghiệp nước ngoài thôn tính, mua lại, chèn ép, “lấy” nhân viên…: Nguy cơ này đã, đang và sẽ tiếp tục xảy ra. Phong cách làm việc, tiềm năng thăng tiến, điều kiên làm việc, lương bổng, bảo hiểm…sẽ thu hút khá nhiều người tài vào các doanh nghiệp nước ngoài. Với tiề lực kinh tế, vốn đầu tư, tiếp cận tài chính, họ có thể thôn tính hoặc mua lai các doanh nghiêhp Việt Nam có tiềm nănng nhưng dang khó khăn về vốn, kiến thức, công nghệ…
Còn rất nhiều nguy cơ khác từ cấp vĩ mô đến vi mô, xong hiện nay các doanh nghiệp Việt
Kết luận:
• Nhìn toàn cục trong bối cảnh các nước đang phát triển thì việc gia nhập WTO và các lợi ích thực tế đem lại vẫn chưa được rõ rang. Tuy nhiên qua nhiều nghiên cứu và số liệu thực tế cho thấy Việt
• Vấn đề đặt ra ở đây không còn là “có hoặc không gia nhập WTO” mà là gia nhâpj như thế nào, lộ trình ra sao để phát huy các cơ hội và giảm thiểu tối đa các nguy cơ thách thức.
• Gia nhập WTO tạo ra các dòng di chuyển về vốn đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và có tác động tích cực đến việc cải cách thể chế, hành chính của Việt
• Tăng trưởng kinh tế là yếu tố then chốt để giảm tình trạng nghèo của nông thôn. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho người lao dộng, đặc biệt là lao động nghèo có cơ hội để nâng cao trình độ tay nghề và tiếng nói, cho phép họ được khai thác hết các cơ hội từ tăng trưởng kinh tế;
• Tuy nhiên gia nhập WTO không phải là yếu tố tạo ra tăng trưởng, mà chính là tăng trưởng sẽ giúp cho quá trình hội nhập được thành còng. Việc phát huy hiệu quả của gia nhập đến xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu, phát triển ngành nghề, phát triển vùng miền và việc làm nói chung và của người nghèo nói riêng còn là kết quả của rất nhiều yếu tố nội tại của nền kinh tế, bao gồm: sự phát triển của thị trường lao động, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật, tiến trình và nội dung của cải cách hành chính và đặc biệt là khả năng phân bổ nguồn lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế;
• Những kinh nghiệm tích cực của một số nước, đặc biệt là của Trung quốc (tăng trưởng cao; cải cách hành chính thúc đẩy nhanh; hiện đại hoá cơ cấu ngành nghề; giải quyết các vấn đề xã hội của sự phát triển…) đã và sẽ giúp Việt Nam trong quá trình đàm phán và kể cả sau này khi gia nhập WTO rồi, nhưng cũng không quên những nguy cơ thách thức kèm theo đó.
• Có người ví việc gia nhập WTO, nói đúng hơn là toàn cầu hoá như là một làn song lớn ngoài biển khơi. Nếu ta biết lựa theo ngọn gió, nương theo ngọn sóng thì con tàu sẽ lướt xa và nhanh, nhưng nếu ta không phát hiện kịp thời hoặc không sửa soạn truớc thì con tàu sẽ bị làn sóng cuốn đi và có thể dẫn đến chìm sâu trong biển cả.
Ts. Ngô Huy Liêm
Hà Nội
Tháng 4/2006