HÀ NỘI.- Giới phân tích và ngân hàng cho rằng rõ ràng là từ một năm nay chính phủ Việt nam chẳng muốn thật sự đẩy mạnh việc cải cách hệ thống ngân hàng, theo tường thuật của ký giả Anya Schiffrin.
Vì thế mà người ta thấy rằng Ngân Hàng Nhà Nước cứ giải quyết từ việc một, đóng cửa các ngân hàng thua lỗ nhứt và cố duy trì sự tín nhiệm của những người ký thác tiền bạc trong khu vực tài chánh.
Một chủ ngân hàng ngoại quốc tuyên bố rằng chính phủ không đủ can đảm để cải tổ kinh tế thật sự. Không thấy có dấu hiệu gì chính phủ sẽ để cho các người ký thác mất số tiền họ gởi trên căn bản tổng quát hay để cho những người có cổ phần bị thiệt hại nặng.
Mùa xuân rồi, Ngân Hàng Nhà Nước loan báo họ sẽ thanh toán 51 ngân hàng bán công, còn gọi là ngân hàng cổ phần và sẽ giải quyết vấn đề các ngân hàng quốc doanh vào giữa năm 1999.
Việc nầy được phối hợp với việc bổ nhậm ông Nguyễn Tấn Dũng, một người được các giới ngoại quốc xem như một nhân vật chủ trương đổi mới, làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, làm cho các nhà phân tích cho rằng sẽ có một sự cải tổ cơ chế quan trọng.
Nhưng người ta chỉ thấy những dấu hiệu trái lại của một sự cải tổ từ từ chậm rãi vì các nhà lãnh đạo nhấn mạnh ở sự ổn định là trên hết và họ không muốn có một sự đổ xô tới ngân hàng (để rút tiền ra).
Mặc dù thế, các nhà phân tích cho rằng cách giải quyết từng việc một đó là một cách làm sai lầm, vì có nhu cầu cấp bách phải giải quyết vấn đề của một số lớn nợ không thanh toán được nằm trên sổ sách của ngân hàng. Cho tới khi các số nợ đó được giải quyết, các ngân hàng cổ phần hỗn hợp không thể cho khu vực tư nhân vay và điều đó sẽ làm thiệt hại tới sự phát triển của nó.
Hiện 4 ngân hàng quốc doanh có thể tiếp tục cho vay, mặc dầu họ cũng phải gánh chịu những số nợ không đòi được, bởi vì họ còn nhận được tiền từ Ngân Hàng Trung Ương (Ngân Hàng Nhà Nước). Nhưng việc các ngân hàng quốc doanh buộc phải cho các công ty quốc doanh vay sẽ không còn tiền để cho các công ty tư nhân vay dù họ kinh doanh có hiệu quả hơn.
Ông Damien Wood, giám đốc nghiên cứu tín dụng của Barclays Capital Asia Ltd nói rằng Ngân hàng là bộ phận then chốt của nền kinh tế. Nếu họ không làm việc có hiệu quả thì họ sẽ là một phần của những khó khăn gây ra.
Mặc dầu cái giá phải trả cho việc giải quyết các món nợ không thanh toán được rất rõ ràng, nhưng chính phủ sẽ phải trả một cái giá đắt hơn nếu cứ chần chờ trong việc cải tổ. Ông Brett Williams, phó chủ tịch nhóm lý tài Thomson Finamcial Bankwatch tuyên bố rằng sự chậm trễ trong việc cải cách sẽ được dùng để cơ chế hóa sự vô hiệu quả và sẽ tăng thêm phí tổn khi chính phủ quyết định thúc đẩy nhanh chóng việc thực hiện các cải tổ theo hướng thị trường.
Hôm tháng tư, chính phủ có cho biết rằng số nợ không thu hồi được trị giá từ 30-40% tổng số tiền mà 51 ngân hàng quốc doanh cho vay là 12 ngàn tỷ đồng. Năm 1998 thì Ngân Hàng Nhà Nước cho biết những con số liên hệ tới việc cho vay đó là 9,4% của số 78.86 ngàn tỷ đồng đã cho vay.
Giới phân tích nói, các con số đó không đáng tin cậy. Tài liệu Ngân hàng Nhà nước hạ thấp tầm mức của vấn đề tại các ngân hàng quốc doanh. Nhưng dù sao thì việc "thanh toán" các ngân hàng đó cũng nhẹ hơn là việc đã xảy ra ở Thái lan, với khoảng 50% nợ không trả được. Tại Nam Dương tỷ lệ nầy là từ 65 tới 70%.
Tuy nhiên Ngân Hàng Nhà Nước không dám thi hành nhữmg biện pháp cương quyết. Có 10 ngân hàng cổ phần hỗn hợp được đặt dưới sự kiểm soát của Ngân Hàng Nhà Nước hồi mùa thu năm rồi, và có hai ngân hàng phải sáp nhập với các ngân hàng khác. Bốn nhân biên điều khiển Ngân hàng Nam Do và Việt Hoa ở Saigon bị bắt. Nhưnh chính phủ cho biết rằng chẳng có một ngân hàng nào bị đóng cửa nếu không ở trong trường hợp tuyệt đối cần thiết.
Chính vì thế mà các nhà phân tích cho rằng Việt nam đã đi sau Thái lan và Nam dương qyá xa trong việc cải tổ. Phải chăng vì sợ không cho các công ty làm ăn kém hiệu quả sẽ làm cho nạn thất nghiệp tăng gia và điều đó sẽ đưa tới sự mất ổn định mà CSVN lo ngại"
Vì thế mà người ta thấy rằng Ngân Hàng Nhà Nước cứ giải quyết từ việc một, đóng cửa các ngân hàng thua lỗ nhứt và cố duy trì sự tín nhiệm của những người ký thác tiền bạc trong khu vực tài chánh.
Một chủ ngân hàng ngoại quốc tuyên bố rằng chính phủ không đủ can đảm để cải tổ kinh tế thật sự. Không thấy có dấu hiệu gì chính phủ sẽ để cho các người ký thác mất số tiền họ gởi trên căn bản tổng quát hay để cho những người có cổ phần bị thiệt hại nặng.
Mùa xuân rồi, Ngân Hàng Nhà Nước loan báo họ sẽ thanh toán 51 ngân hàng bán công, còn gọi là ngân hàng cổ phần và sẽ giải quyết vấn đề các ngân hàng quốc doanh vào giữa năm 1999.
Việc nầy được phối hợp với việc bổ nhậm ông Nguyễn Tấn Dũng, một người được các giới ngoại quốc xem như một nhân vật chủ trương đổi mới, làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, làm cho các nhà phân tích cho rằng sẽ có một sự cải tổ cơ chế quan trọng.
Nhưng người ta chỉ thấy những dấu hiệu trái lại của một sự cải tổ từ từ chậm rãi vì các nhà lãnh đạo nhấn mạnh ở sự ổn định là trên hết và họ không muốn có một sự đổ xô tới ngân hàng (để rút tiền ra).
Mặc dù thế, các nhà phân tích cho rằng cách giải quyết từng việc một đó là một cách làm sai lầm, vì có nhu cầu cấp bách phải giải quyết vấn đề của một số lớn nợ không thanh toán được nằm trên sổ sách của ngân hàng. Cho tới khi các số nợ đó được giải quyết, các ngân hàng cổ phần hỗn hợp không thể cho khu vực tư nhân vay và điều đó sẽ làm thiệt hại tới sự phát triển của nó.
Hiện 4 ngân hàng quốc doanh có thể tiếp tục cho vay, mặc dầu họ cũng phải gánh chịu những số nợ không đòi được, bởi vì họ còn nhận được tiền từ Ngân Hàng Trung Ương (Ngân Hàng Nhà Nước). Nhưng việc các ngân hàng quốc doanh buộc phải cho các công ty quốc doanh vay sẽ không còn tiền để cho các công ty tư nhân vay dù họ kinh doanh có hiệu quả hơn.
Ông Damien Wood, giám đốc nghiên cứu tín dụng của Barclays Capital Asia Ltd nói rằng Ngân hàng là bộ phận then chốt của nền kinh tế. Nếu họ không làm việc có hiệu quả thì họ sẽ là một phần của những khó khăn gây ra.
Mặc dầu cái giá phải trả cho việc giải quyết các món nợ không thanh toán được rất rõ ràng, nhưng chính phủ sẽ phải trả một cái giá đắt hơn nếu cứ chần chờ trong việc cải tổ. Ông Brett Williams, phó chủ tịch nhóm lý tài Thomson Finamcial Bankwatch tuyên bố rằng sự chậm trễ trong việc cải cách sẽ được dùng để cơ chế hóa sự vô hiệu quả và sẽ tăng thêm phí tổn khi chính phủ quyết định thúc đẩy nhanh chóng việc thực hiện các cải tổ theo hướng thị trường.
Hôm tháng tư, chính phủ có cho biết rằng số nợ không thu hồi được trị giá từ 30-40% tổng số tiền mà 51 ngân hàng quốc doanh cho vay là 12 ngàn tỷ đồng. Năm 1998 thì Ngân Hàng Nhà Nước cho biết những con số liên hệ tới việc cho vay đó là 9,4% của số 78.86 ngàn tỷ đồng đã cho vay.
Giới phân tích nói, các con số đó không đáng tin cậy. Tài liệu Ngân hàng Nhà nước hạ thấp tầm mức của vấn đề tại các ngân hàng quốc doanh. Nhưng dù sao thì việc "thanh toán" các ngân hàng đó cũng nhẹ hơn là việc đã xảy ra ở Thái lan, với khoảng 50% nợ không trả được. Tại Nam Dương tỷ lệ nầy là từ 65 tới 70%.
Tuy nhiên Ngân Hàng Nhà Nước không dám thi hành nhữmg biện pháp cương quyết. Có 10 ngân hàng cổ phần hỗn hợp được đặt dưới sự kiểm soát của Ngân Hàng Nhà Nước hồi mùa thu năm rồi, và có hai ngân hàng phải sáp nhập với các ngân hàng khác. Bốn nhân biên điều khiển Ngân hàng Nam Do và Việt Hoa ở Saigon bị bắt. Nhưnh chính phủ cho biết rằng chẳng có một ngân hàng nào bị đóng cửa nếu không ở trong trường hợp tuyệt đối cần thiết.
Chính vì thế mà các nhà phân tích cho rằng Việt nam đã đi sau Thái lan và Nam dương qyá xa trong việc cải tổ. Phải chăng vì sợ không cho các công ty làm ăn kém hiệu quả sẽ làm cho nạn thất nghiệp tăng gia và điều đó sẽ đưa tới sự mất ổn định mà CSVN lo ngại"
Gửi ý kiến của bạn