Lưỡng Hà là hai con sông, là vùng đất nằm chung quanh của hai con sông mang tên Tigris và Euphrates - mà nay thuộc Iraq. Vùng dất của dân tộc Sumer sinh sống - Cũng chính là nơi văn tự dầu tiên xuất hiện nên đuợc gọi là tiếng Sumer. Ngày hôm nay, ngôn ngữ học gọi tiếng nứớc này là Cuneiform, theo La Tinh chữ cunei nghĩa là góc, do đó tiếng Sumer cũng có thể gọi là Văn tự hình góc vậy.
Câu chuyện phát sinh ra văn tự cũng thật bùi ngùi và lãng mạn, đó là câu chuyện của nàng hầu Dabitum xinh đẹp đã yêu người chủ quý phái củïa mình và nàng cũng đã được chàng đáp lại tình yêu một cách chân tình. Thế nhưng vì xã hội lúc bấy giờ khắc khe với sự môn đăng hộ đối nên chàng không dám ra mặt lo cho nàng, dù biết nàng có mang với mình! Trong nỗi tuyệt vọng lúc bụng mang dạ chửa mà bóng chàng vẫn biền biệt, và để làm sao nhắn lại cho chàng tâm sự của mình, nàng đã nghĩ ra cách viết gởi lại cho chàng những uẩn khúc thương đau của mình.....
"Nữ nô Dabitum hèn mọn xin kính cẩn gởi lên thưa với Ðại Chủ rằng những điều thiếp đã nói trước với chàng nay nó đã đến đó là việc dứa con của chúng ta đã chết mà chàng vẫn không thấy bóng đâu, mà cũng không có ai muốn lo cho thiếp! Xin chàng hãy giúp thiếp chứ nếu không chắc thiếp phải chết mất! Nếu số phận phải chết thì thiếp cũng cam phận nhưng thiếp chỉ mong trước khi nhắm mắt thiếp chỉ mong được nhìn thấy mặt chàng một lần cuối..."
Một lá thư đơn giản, nói lên một niềm đau của một kẻ đau khổ vì tình duyên ngang trái đã xảy ra cách dây hơn 4 ngàn năm - Nhưng trong sự đau khổ đó người nữ nô lệ đã dùng một phương tiện truyền thông độc đáo nhất của thời bấy giờ là dùng văn tụ để diễn đạt tư tưởng mà nàng có biết đâu chính nàng đã làm cho hậu thế không bao giờ quên nàng, mối tình của nàng và người chủ nhân kia : Ðó là chữ viết của nhân loại .
Người Lưỡng Hà viết chữ bằng cách dùng một cái que để khắc hình hay dấu (Ðó là hình thức của chữ lúc ban đầu) lên trên một mãnh đất sét chỉ bằng một bàn tay, rồi đem miếng dất sét đó phơi khô, chữ sẽ hiện ra rất rõ. Loại chữ này được gọi là Tiền văn tự.
Theo nhà học giả Irving Finkel thuộc Viện Bảo Tàng Anh Quốc giải thích thì " Khi người Sumer bắt đầu dùng chũ viết, họ dùng rất nhiều đường cong. Nếu họ muốn viết chữ Heo, họ vẽ một hình tiêu biểu là cái mõm, rồi đến hai vành tai sau cùng là vài sợi lông tua tủa.... Ngay từ ban đầu người ta đã nghĩ đến cách dùng biểu tượng hình ảnh cho văn tự, đó chính là sự thông minh tuyệt đỉnh của người đã nghĩ ra phương cách đó vậy.
Vẫn theo Học giả Irving Finkel thì những chứng tích cổ nhất về văn tự còn tồn tại đến ngày hôm nay đó là nhũng bản kiểm kê hàng tồn kho, cho nên chúng ta hiểu ngay rằng ban đầu con người tìm cách dùng văn tự để lưu lại những việc trên thế gian này không phải bước đầu bằng sự thúc bách cho nhu cầu tình yêu hay văn chương mà chính là sự sống
Kiểm kê việc giao lưu hàng hóa, phẩm vật.
Trong nền văn minh Sumer, bảng từ vựng soạn ra nhằm mục đích dạy cho các thiếu niên sẽ trở thành những thư ký - Ðó là thành phần duy hhất trong xã hội Sumer bấy giờ được phép đi học nên biết chữ mà ngay chính một số Vua chúa cũng đã không biết đọc biết viết!
Các trường dạy học có kỷ luật rất nghiêm khắc, chương trình học được soạn sẳn theo một quy trình nhất định. Vì hạn chế việc học và học rất nghiêm túc như vậy cho nên người Sumer đã giỏi hơn các dân tộc khác về toán và viết văn.
Chúng ta thử nghe một đoạn văn của một học sinh thư lại đã viết vào khoản năm 2000 trước Công Nguyên (B.C.) :
"Buổi sáng tôi dậy sớm. Nhìn mẹ tôi nói: Mẹ cho con đem gì theo để ăn trưa, con muốn đến trường. Mẹ tôi đưa cho tôi hai cái bánh và tôi lên đường. Ðến trường Thầy giáo hỏi: Sao con đến trể" Tôi sợ quá, tim đập mạnh, tôi lật đật đi vào lớp trước cả thầy giáo."
Toán học và người Sumer :
Tiếng Sumer thời đó không có Mẫu tự. Mẫu tự chỉ xuất hiện khoảng năm 1000 trước Công Nguyên (B.C.) tại vùng đất Syria mà thôi. Cho nên học trình của những lớp thư lại là Toán và chữ viết lẫn cách đọc. Người Sumer đếm số về toán theo hệ LUC THẬP PHÂN, còn bây giờ chúng ta đến theo hệ THẬP PHÂN. Tuy nhiên ngày nay hệ lục thập phân cũng vẫn còn sót trong một vài cách đếm chẳng hạn như chúng ta đếm một giờ có 60 phút, một phút có 60 mươi dây chính là cách tính theo Lục Thập phân vậy. Mặt khác, ngày hôm nay cách tính của chúng ta gồm 10 ký hiệu từ số "0" cho đến số "9" để viết các số nhưng người Sumer chỉ dùng hai ký hiệu mà thôi. Chẳng hạn như muốn viết số 24, họ vẽ hai mũi tên quay về hướng trái để chỉ số 20, sau đó vẽ bốn hình cọc thẳng để chỉ số 4. Ðặc biệt người Lưỡng Hà đã biết cách giải Ðại số với phương trình với hai hay ba ẩn số nhưng tất cả đều viết thành văn. Sau này người ta đã tìm thấy những phiếm đá có khắc ghi những phương trình mà học trò thời đó đã giải ra. Ngoài ra người Lưỡng Hà cũng còn biết tính toán bằng phân số và tỉ số, họ đã tính rất chính xác về thể tích và kích thước cũng như hình dạng của những đống thóc, ngô... Ðó là những tính toán cụ thể nhất trong cuộc sống và đây chính là điều để chúng ta có thể hiểu được rằng người Sumer rất thực tế... Và tất cả đó chính là mầm mống văn minh nhân loại.
Ngoại ngữ và Lao động :
Lúc bấy giờ, một Bộ tộc khác đã sinh sống trong vùng Lưỡng Hà nhưng nói một thứ tiếng khác, đó là dân tộc Akkad thuộc dân tộc Semit. Có lẽ những thư lại có thể nói hai thứ tiếng vì đã làm việc với hai dân tộc trên và dần dần tiếng Sumer dùng để viết sách và tôn giáo còn tiếng Akkad trở thành tiếng thông dụng để giao thiệp hàng ngày.
Ðất Lưỡng Hà chỉ có hai con sông trên mà thôi do vậy việc đào kênh là bắt buộc để sinh tồn. Cho nên đã có những công trình đào kinh để lại rất vĩ đại, nhưng cũng có những người lao động bị bắt đi đào kinh đã than vản như bài thơ sau đây:
"Ðào kinh khơi ngòi
Khai thông huyết mạch
làm dất phì nhiêu
Ðào sông Tigris
Vét dòng Euphrates
Thiên thận mệt nhọc
Ðếm từng tháng ngày,
Hơn ba ngàn năm
Ðêm dêm ngày ngày
Kêu than ong địa
Còn dất cón đào...
Ngoài ra, hàng năm cứ đến mùa Xuân thường có những cơn lụt lớn trên sông Tiris làm ngập nhà cửa do vì vùng dất này rất bằng phẳng nên chỉ cần nước sông ngập là nước tràn ngập nhà dân!
Bản chất và nền văn minh Lưỡng Hà
Một di tích truyền lại, có một vị Tướng đã viết một Phiếu trình lên Thượng cấp của ông ta với nội dung như sau:
"Ðã năm ngày nay, quân ta đã đóng quân tại chỗ như Ngài đã ra lệnh để chờ đám quân từ Hana tới, nhưng một số lính đã không chịu tập trung dưới cờ. Vậy rất mong Tướng quân chấp thuận để thuộc cấp đem một số quân phạm trong ngục ra chém đầu và treo đầu chung quanh trại để các binh sĩ kinh sộ mà tuân lệnh mau chóng tập trung lại."
Nhìn vào nội dung đó cũng đảu cho chúng ta thấy tính hiếu chiến và tàn bạo coi thường tính mạng của dân tộc khác của dân Lưỡng Hà, mà nay là Iraq" Thế nhưng điều mà ta không thể chối cải đó là nền văn minh sớm của dân tộc Lưỡng Hà thể hiện qua những di tích tồn tại như các bức tranh, bản vẽ, hình tượng...
Ðiểm đặc biệt người Lưỡng Hà cho rằng có một Vị Thần đỡ đầu cho dân tộc họ và chính Vi Thần này đã ủy nhiệm cho Vi Vua hay người lãnh đạo dân tộc Lưỡng Hà thực hiện những ước muốn va diều dạy bảo của Vi Thần đó.
Thành phố trung tâm tôn giáo của Lưỡng Hà là Nippur, nằm phía Nam của đất Lưỡng Hà, nhưng người cai trị của Nippur lại không có quyền lực chính trị mà chỉ có quyền lực về tinh thần đối với dân chúng mà thôi. Ða số những vì Vua của Lưỡng Hà đều nhân danh Thần linh mà tạo uy lực cho mình ngoại trừ Vi Vua Kish - Người đã nắm toàn quyền sinh sát của Lưỡng Hà vào năm 2600 B.C lại không bao giờ nhân danh Thần thánh gì hết! Một thành nổi tiếng trong lịch sử nhân loại đó là thành Babylon vì chính nơi này đã trở thành Trung tâm quyền lực của thời bấy giờ. Nói chung, mỗi thành của Lưỡng Hà đều có một huyền thoại khác nhau - Như chuyện kể Một "Ngàn lẻ một Ðêm "
Trong văn chương của Lưỡng Hà cũng có những vần thơ tuyệt đep như lời thỏ thẻ của nữ thần Inanna với đức lang quân:
"Này chàng nông phu, vun xới cánh dồng bát ngát của em ơi,
Phải chăng chàng là kẻ chăn chiên của thiếp...
Em nhớ chàng..
Ðây này những chùm nho chín mọng..
Ngoài ra lúa đã trổ bông
Dưới sông cá tung tăng lội..
Trên cây chim líu lo hót trong tiếng gió rì ráo..
Mọi thứ đang chờ chàng..
Vĩnh cữu sẽ bên chàng....
(Viết tại California, tháng 7 năm 2003)
Câu chuyện phát sinh ra văn tự cũng thật bùi ngùi và lãng mạn, đó là câu chuyện của nàng hầu Dabitum xinh đẹp đã yêu người chủ quý phái củïa mình và nàng cũng đã được chàng đáp lại tình yêu một cách chân tình. Thế nhưng vì xã hội lúc bấy giờ khắc khe với sự môn đăng hộ đối nên chàng không dám ra mặt lo cho nàng, dù biết nàng có mang với mình! Trong nỗi tuyệt vọng lúc bụng mang dạ chửa mà bóng chàng vẫn biền biệt, và để làm sao nhắn lại cho chàng tâm sự của mình, nàng đã nghĩ ra cách viết gởi lại cho chàng những uẩn khúc thương đau của mình.....
"Nữ nô Dabitum hèn mọn xin kính cẩn gởi lên thưa với Ðại Chủ rằng những điều thiếp đã nói trước với chàng nay nó đã đến đó là việc dứa con của chúng ta đã chết mà chàng vẫn không thấy bóng đâu, mà cũng không có ai muốn lo cho thiếp! Xin chàng hãy giúp thiếp chứ nếu không chắc thiếp phải chết mất! Nếu số phận phải chết thì thiếp cũng cam phận nhưng thiếp chỉ mong trước khi nhắm mắt thiếp chỉ mong được nhìn thấy mặt chàng một lần cuối..."
Một lá thư đơn giản, nói lên một niềm đau của một kẻ đau khổ vì tình duyên ngang trái đã xảy ra cách dây hơn 4 ngàn năm - Nhưng trong sự đau khổ đó người nữ nô lệ đã dùng một phương tiện truyền thông độc đáo nhất của thời bấy giờ là dùng văn tụ để diễn đạt tư tưởng mà nàng có biết đâu chính nàng đã làm cho hậu thế không bao giờ quên nàng, mối tình của nàng và người chủ nhân kia : Ðó là chữ viết của nhân loại .
Người Lưỡng Hà viết chữ bằng cách dùng một cái que để khắc hình hay dấu (Ðó là hình thức của chữ lúc ban đầu) lên trên một mãnh đất sét chỉ bằng một bàn tay, rồi đem miếng dất sét đó phơi khô, chữ sẽ hiện ra rất rõ. Loại chữ này được gọi là Tiền văn tự.
Theo nhà học giả Irving Finkel thuộc Viện Bảo Tàng Anh Quốc giải thích thì " Khi người Sumer bắt đầu dùng chũ viết, họ dùng rất nhiều đường cong. Nếu họ muốn viết chữ Heo, họ vẽ một hình tiêu biểu là cái mõm, rồi đến hai vành tai sau cùng là vài sợi lông tua tủa.... Ngay từ ban đầu người ta đã nghĩ đến cách dùng biểu tượng hình ảnh cho văn tự, đó chính là sự thông minh tuyệt đỉnh của người đã nghĩ ra phương cách đó vậy.
Vẫn theo Học giả Irving Finkel thì những chứng tích cổ nhất về văn tự còn tồn tại đến ngày hôm nay đó là nhũng bản kiểm kê hàng tồn kho, cho nên chúng ta hiểu ngay rằng ban đầu con người tìm cách dùng văn tự để lưu lại những việc trên thế gian này không phải bước đầu bằng sự thúc bách cho nhu cầu tình yêu hay văn chương mà chính là sự sống
Kiểm kê việc giao lưu hàng hóa, phẩm vật.
Trong nền văn minh Sumer, bảng từ vựng soạn ra nhằm mục đích dạy cho các thiếu niên sẽ trở thành những thư ký - Ðó là thành phần duy hhất trong xã hội Sumer bấy giờ được phép đi học nên biết chữ mà ngay chính một số Vua chúa cũng đã không biết đọc biết viết!
Các trường dạy học có kỷ luật rất nghiêm khắc, chương trình học được soạn sẳn theo một quy trình nhất định. Vì hạn chế việc học và học rất nghiêm túc như vậy cho nên người Sumer đã giỏi hơn các dân tộc khác về toán và viết văn.
Chúng ta thử nghe một đoạn văn của một học sinh thư lại đã viết vào khoản năm 2000 trước Công Nguyên (B.C.) :
"Buổi sáng tôi dậy sớm. Nhìn mẹ tôi nói: Mẹ cho con đem gì theo để ăn trưa, con muốn đến trường. Mẹ tôi đưa cho tôi hai cái bánh và tôi lên đường. Ðến trường Thầy giáo hỏi: Sao con đến trể" Tôi sợ quá, tim đập mạnh, tôi lật đật đi vào lớp trước cả thầy giáo."
Toán học và người Sumer :
Tiếng Sumer thời đó không có Mẫu tự. Mẫu tự chỉ xuất hiện khoảng năm 1000 trước Công Nguyên (B.C.) tại vùng đất Syria mà thôi. Cho nên học trình của những lớp thư lại là Toán và chữ viết lẫn cách đọc. Người Sumer đếm số về toán theo hệ LUC THẬP PHÂN, còn bây giờ chúng ta đến theo hệ THẬP PHÂN. Tuy nhiên ngày nay hệ lục thập phân cũng vẫn còn sót trong một vài cách đếm chẳng hạn như chúng ta đếm một giờ có 60 phút, một phút có 60 mươi dây chính là cách tính theo Lục Thập phân vậy. Mặt khác, ngày hôm nay cách tính của chúng ta gồm 10 ký hiệu từ số "0" cho đến số "9" để viết các số nhưng người Sumer chỉ dùng hai ký hiệu mà thôi. Chẳng hạn như muốn viết số 24, họ vẽ hai mũi tên quay về hướng trái để chỉ số 20, sau đó vẽ bốn hình cọc thẳng để chỉ số 4. Ðặc biệt người Lưỡng Hà đã biết cách giải Ðại số với phương trình với hai hay ba ẩn số nhưng tất cả đều viết thành văn. Sau này người ta đã tìm thấy những phiếm đá có khắc ghi những phương trình mà học trò thời đó đã giải ra. Ngoài ra người Lưỡng Hà cũng còn biết tính toán bằng phân số và tỉ số, họ đã tính rất chính xác về thể tích và kích thước cũng như hình dạng của những đống thóc, ngô... Ðó là những tính toán cụ thể nhất trong cuộc sống và đây chính là điều để chúng ta có thể hiểu được rằng người Sumer rất thực tế... Và tất cả đó chính là mầm mống văn minh nhân loại.
Ngoại ngữ và Lao động :
Lúc bấy giờ, một Bộ tộc khác đã sinh sống trong vùng Lưỡng Hà nhưng nói một thứ tiếng khác, đó là dân tộc Akkad thuộc dân tộc Semit. Có lẽ những thư lại có thể nói hai thứ tiếng vì đã làm việc với hai dân tộc trên và dần dần tiếng Sumer dùng để viết sách và tôn giáo còn tiếng Akkad trở thành tiếng thông dụng để giao thiệp hàng ngày.
Ðất Lưỡng Hà chỉ có hai con sông trên mà thôi do vậy việc đào kênh là bắt buộc để sinh tồn. Cho nên đã có những công trình đào kinh để lại rất vĩ đại, nhưng cũng có những người lao động bị bắt đi đào kinh đã than vản như bài thơ sau đây:
"Ðào kinh khơi ngòi
Khai thông huyết mạch
làm dất phì nhiêu
Ðào sông Tigris
Vét dòng Euphrates
Thiên thận mệt nhọc
Ðếm từng tháng ngày,
Hơn ba ngàn năm
Ðêm dêm ngày ngày
Kêu than ong địa
Còn dất cón đào...
Ngoài ra, hàng năm cứ đến mùa Xuân thường có những cơn lụt lớn trên sông Tiris làm ngập nhà cửa do vì vùng dất này rất bằng phẳng nên chỉ cần nước sông ngập là nước tràn ngập nhà dân!
Bản chất và nền văn minh Lưỡng Hà
Một di tích truyền lại, có một vị Tướng đã viết một Phiếu trình lên Thượng cấp của ông ta với nội dung như sau:
"Ðã năm ngày nay, quân ta đã đóng quân tại chỗ như Ngài đã ra lệnh để chờ đám quân từ Hana tới, nhưng một số lính đã không chịu tập trung dưới cờ. Vậy rất mong Tướng quân chấp thuận để thuộc cấp đem một số quân phạm trong ngục ra chém đầu và treo đầu chung quanh trại để các binh sĩ kinh sộ mà tuân lệnh mau chóng tập trung lại."
Nhìn vào nội dung đó cũng đảu cho chúng ta thấy tính hiếu chiến và tàn bạo coi thường tính mạng của dân tộc khác của dân Lưỡng Hà, mà nay là Iraq" Thế nhưng điều mà ta không thể chối cải đó là nền văn minh sớm của dân tộc Lưỡng Hà thể hiện qua những di tích tồn tại như các bức tranh, bản vẽ, hình tượng...
Ðiểm đặc biệt người Lưỡng Hà cho rằng có một Vị Thần đỡ đầu cho dân tộc họ và chính Vi Thần này đã ủy nhiệm cho Vi Vua hay người lãnh đạo dân tộc Lưỡng Hà thực hiện những ước muốn va diều dạy bảo của Vi Thần đó.
Thành phố trung tâm tôn giáo của Lưỡng Hà là Nippur, nằm phía Nam của đất Lưỡng Hà, nhưng người cai trị của Nippur lại không có quyền lực chính trị mà chỉ có quyền lực về tinh thần đối với dân chúng mà thôi. Ða số những vì Vua của Lưỡng Hà đều nhân danh Thần linh mà tạo uy lực cho mình ngoại trừ Vi Vua Kish - Người đã nắm toàn quyền sinh sát của Lưỡng Hà vào năm 2600 B.C lại không bao giờ nhân danh Thần thánh gì hết! Một thành nổi tiếng trong lịch sử nhân loại đó là thành Babylon vì chính nơi này đã trở thành Trung tâm quyền lực của thời bấy giờ. Nói chung, mỗi thành của Lưỡng Hà đều có một huyền thoại khác nhau - Như chuyện kể Một "Ngàn lẻ một Ðêm "
Trong văn chương của Lưỡng Hà cũng có những vần thơ tuyệt đep như lời thỏ thẻ của nữ thần Inanna với đức lang quân:
"Này chàng nông phu, vun xới cánh dồng bát ngát của em ơi,
Phải chăng chàng là kẻ chăn chiên của thiếp...
Em nhớ chàng..
Ðây này những chùm nho chín mọng..
Ngoài ra lúa đã trổ bông
Dưới sông cá tung tăng lội..
Trên cây chim líu lo hót trong tiếng gió rì ráo..
Mọi thứ đang chờ chàng..
Vĩnh cữu sẽ bên chàng....
(Viết tại California, tháng 7 năm 2003)
Gửi ý kiến của bạn