Hôm nay,  

Nhìn Lại 60 Năm Qua

17/04/200600:00:00(Xem: 6015)
Một bài đăng trên tờ Constellation của Pháp năm 1966 có mô tả đêm 19/6/1946, Võ Nguyên Giáp cho Tự Vệ tấn công quân Pháp tại Hà Nội, cuối bài người ký giả kết luận.

"Đó là trận đánh mở đầu của cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ (La guerre la plus longue du siècle), nó kéo dài từ hai mươi năm qua, và đất nước bị chia đôi mãi mãi"

Nhưng tới nay thời gian đã trả lời đất nước không bị chia đôi vĩnh viễn mà đã thống nhất làm một dưới chế độ độc tài Cộng Sản sau mấy chục năm binh đao khói lửa.

Năm 1945 quân Pháp núp sau xe tăng Mỹ về giải phóng đất nước. Sau khi giành độc lập, De Gaulle trắng trợn tuyên bố tất cả các thuộc địa cũ đều sẽ được chiếm lại, bọn thực dân còn nhiều quyền lợi như nhà máy, đồn điền, cửa hàng, hầm mỏ. . .mà chúng cho là tài sản, mồ hôi nước mắt của mình. Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn giải giới quân Nhật tháng 9/1945, thừa cơ chiếm lại các tỉnh Nam, Trung Việt. Sau Pháp áp lực Việt Minh phải cho chúng ra Bắc, Hồ Chí Minh tương kế tựu kế cho Pháp ra Hà Nội để đuổi quân Tầu phù của Tưởng Giới Thạch về nước.

Pháp đổ bộ vào Hải Phòng, ra Hà Nội tháng 3/1946. Tháng 7/1946 nhờ Pháp giúp đỡ đạn dược, Việt Minh tấn công tiêu diệt các lực lượng Quốc Dân Đảng tại các tỉnh thượng du như Bắc Ninh, Bằng Giang, Lạng Sơn. . bắn giết cả tù binh, thương binh. Sau khi giúp Việt Minh tiêu diệt các đảng phái Quốc gia, Pháp trở mặt gây hấn với Việt Minh. Chiến tranh chắc chắn phải diễn ra, tối 19/6/1946 Việt Minh biết là thua nhưng cũng đánh đại một trận rồi rút lui vào hậu phương kháng chiến.

Chúng tôi xin sơ lươc về lực lượng quân sự của Việt Minh hồi ấy. Pháp bị Nhật đảo chính 9/3/1945, Việt Minh phục kích đám tàn quân Pháp để lấy vũ khí. Tháng 6/1945 Việt Minh được Mỹ thả dù xuống chiến khu 5,000 khẩu súng đủ các loại để hợp tác chống Nhật, cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi. Việt Minh cướp được chính quyền tháng 8 năm 1945, tháng 9 quân Tầu sang giải giới Nhật, Hồ chí Minh tổ chức quyên vàng rồi đem gái đẹp, thuốc phiện vàng bạc mua chuộc các quan Tầu, mua súng lậu của họ, của các thương gia Hoa Kiều. Cuối năm 1946 Việt Minh có khoảng 100 ngàn quân trên toàn quốc kể cả du kích, 30 ngàn quân phía trên vĩ tuyến 16, có khoảng 80,000 khẩu súng đủ các loại kể cả súng cối. Sau năm 1945 có khoảng 10 ngàn quân Nhật ở lại theo Việt Minh kháng chiến, họ huấn luyện cho Việt Minh tại Sơn Tây. Người Nhật cũng giúp Việt Minh lập cơ xưởng chế tạo vũ khí tại miền thượng du Bắc Việt, từ đầu đến cuối năm 1946 họ chế tạo được 10,000 khẩu súng cá nhân, 30,000 vũ khí đủ loại như mìn lựu đạn, tuy nhiên so với Pháp có xe tăng đại bác thì họ vẫn cón quá yếu.

Trong những năm 1947, 48 Việt Minh còn yếu thế lẩn trốn đánh du kích, không dám ra mặt. Pháp thừa thắng chiếm Hoà Bình, Sơn Tây, Việt Trì, Bắc Ninh năm 1948. Cuối Năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Mãn Châu, ngày 7/10/1948 Hồng quân đại thắng ở Hoa Bắc, Tưởng xin Mỹ viện trợ nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng 12 năm 1948 bà Tống Mỹ Linh, Tưởng phu nhân đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng họ lờ đi, trước đây họ giúp Tưởng để chống Nhật nay Nhật đã đầu hàng, họ không cần Tưởng và bỏ rơi không thương tiếc. Trước đây năm 1943 Tống Mỹ Linh sang Mỹ xin cầu viện 50 triệu đô la quân viện để chống Nhật, Mỹ phải thuận cho vì Tưởng doạ ký hoà ước với Nhật.

Ngày 21/1/1949 Trung Cộng vào Bắc Kinh, đầu tháng 10/1949 Mao tuyên bố thành lập nước Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc. Trước 1948 Việt Minh vẫn nịnh bợ Quốc Dân Đảng Trung Hoa để mua vũ khí của họ, nhưng khi thấy Hồng quân thắng lớn, Việt Minh trở cờ hô to " Mao Chủ Tịt muôn năm" và xin thần phục làm đệ tử trung thành. Ngày 18/1/1949 Mao thừa nhận Hồ, và ngày 31/1949 Hồ cũng thừa nhận Mao.Thế là thời cơ vô cùng thuận lợi tự dưng đem đến tận tay một bọn gian manh quỉ sứ.

Trung Cộng từ đấy chuyển vận vũ khí ồ ạt giúp Hồ, thành lập nhiều trại huấn luyện dọc theo biên giới. Nhờ đó Việt Minh tổ chức đươc trên 40,000 quân chính qui, nhiều đại đoàn như 308, 312, 316, 320. Năm 1948 họ thành lập được 32 tiểu đoàn chính qui, năm 1950 tăng vọt lên 127 tiểu đoàn, Hồ chí Minh ban hành tổng động viên gia tăng quân số. Năm 1948 Pháp thấy không thể dùng quân sự được mà phải phối hợp chính trị, chiến tranh tâm lý để thắng địch nên họ đã nghĩ đến việc đưa cựu hoàng Bảo Đại, một người ôn hoà thân Pháp về làm Quốc trưởng. Nhiều phái đoàn tại Huế Sài Gòn, Hà Nội cũng đã đi Hương Cảng mời Ngài trở về gánh vác giang sơn, họ không tin cả Pháp lẫn Việt Minh cho rằng vì Ngài thoái vị nên mới có đổ máu, chiến tranh. Tháng 3/1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol và ông Bảo Đại cùng ký thoả ước về một nước Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp.

Chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập từ đấy, Thiếu tướng Nguyễn văn Xuân được cử thành lập chính phủ lâm thời, lấy cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ, bài Tiếng Gọi Thanh Niên làm quốc ca, Thủ đô đặt tại Sài Gòn. Chính phủ Bảo Đại từ 1/1949 cho tới đầu 1950, Nguyễn Phan Long 1950, Trần Văn Hữu 1950-51. . . chế độ không có hiến pháp, chỉ có hai Đạo dụ 1/71949 về tổ chức công quyền. Quốc trưởng có quyền lập pháp và bổ nhiệm thủ tướng. Quân đội Quốc gia được thành lập cuối năm 1949, lương bổng do chính phủ trả tượng trưng còn lại do viện trợ Mỹ đài thọ, các công sở Pháp được trao dần dần cho Việt Nam. Quân đội Quốc Gia năm 1950 mới có năm tiểu đoàn, 1951 có 26 tiểu đoàn, chính phủ thành lập các trường võ bị, không quân, quân y...

Đầu năm 1949 Hồng quân chiếm trọn nước Trung Hoa, họ cho 20 sư đoàn đóng dọc theo biên giới Việt Hoa để ngăn chặn Quốc quân chạy sang Việt Nam. Pháp sợ quá nên rút khỏi Cao Bằng. Việt Minh biết trước do tình báo Nga nên tiến đánh chiếm Đông Khê bằng chiến thuật biển người năm đổi một. Đại tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn khỏi cao Bằng ngày 29/9/1949, đến đầu tháng mười bị Việt Minh chận đánh tơi bời, ngày 7/10 binh đoàn tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 khẩu đại bác 10,000 súng cá nhân và cộng đồng trung liên, đại liên.

Trận đánh làm rung động cả nước Pháp vì không ai ngờ bây giờ Việt Minh lại mạnh đến thế. Lạng Sơn sợ quá cũng rút quân không kịp tiêu hủy đạn dược để lại hàng nghìn lít săng, 450 quân xa, 13,000 súng cá nhân, đây là một trận đại phục kích, theo Việt Minh Pháp mất 8,000 quân, 3,500 bị bắt làm tù binh.

Đó là một khúc quành trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp; Việt Minh đang chuyển bại thành thắng. Khi Mao chuyển vũ khí ồ ạt cho Việt Minh thì cuối tháng 10/1950 Mỹ vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm chở tới Sài gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Pháp gia tăng quân số leo thang chiến tranh, năm 1945 mới có 32,000, năm1947 lên 128,000, năm 1950 143,000. .

Đầu năm 1950 Võ Nguyên Giáp được cố vấn Trung Cộng dạy cho lối đánh biển người, tháng 2 năm ấy Giáp đích thân chỉ huy sư đoàn 308, cho 6,000 người tấn công đồn Phố Lu, trong đồn chỉ có 150 lính với 4 khẩu đại liên ở lô cốt, Giáp cho pháo kích rồi xung phong hết đợt này đến đợt khác, bốn khẩu đại liên bắn như mưa bấc đỏ cả nòng, mặc dù đã đẩy bao nhiêu thanh niên vào chỗ chết nhưng Việt Minh không đạt được mục tiêu.

Sau trận Cao Bắc Lạng Pháp hoảng quá cử tướng năm sao De Lattre de Tassigny đến Đông Dương cuối 1950, tăng thêm 18,000 quân xa, 2,300 thiết giáp, 230 tầu chiến giang đĩnh, 500,000 súng cá nhân, 1,500 súng cối, 750 đại bác. De Lattre cho xây nhiều lô cốt đốn bót kiên cố đương đầu với Việt Minh đang thừa thắng sông lên. Trận chiến ngày càng leo thang, tính đến cuối năm 1950 đã có 15,000 lính Pháp tử trận. Việt Minh bắt đầu đánh lớn, ngày 13/1/1951 họ đánh đồn Bao Chúc gần Vĩnh Yên, chiếm được nhiều cao điển quanh Vĩnh Yên, Hà Nội bị đe doạ, trận chiến diễn ra dữ dội.

Trận này Võ Nguyên Giáp cũng đánh biển người thí quân hằng hà sa số, không có cứu thương, Giáp huy động hai sư đoàn 308, 312 xung phong hết lớp này đến lớp khác, đại liên bắn không xuể, hai bên bây giờ trộn trấu. Việt Minh đánh chia cắt 6,000 quân Pháp, 24 tiểu đoàn Việt Minh giáp mặt 3 liên đoàn Pháp. De Lattrre quyết định táo bạo tàn nhẫn không ai ngờ, Salan cũng không ngờ, ông ta cho tập trung 100 máy bay ném xuống mặt trận 300 quả bom săng lửa (napalm) thí quân cả hai bên, lửa đỏ rực cả góc trời thiêu đốt cả hai đạo quân đang xáp lá cà. Việt Minh mất 6,000 người, 500 bị bắt làm tù binh. Võ nguyên Giáp và cố vấn Tầu sợ xanh mặt, không ai ngờ De Lattre chơi bạo đến thế.

Giáp bổ sung quân số, trang bị lại rồi dùng sư đoàn 308, 312, 316 tấn công Mạo Khê, mặc dù đánh biển người nhưng cũng không chiếm được mục tiêu. Kế đó là trận sông Đáy kéo dài trên phòng tuyến 80 cây số, gần một tháng, sư đoàn 308 đánh Ninh Bình, 304 Phủ Lý, 320 đánh Phát Diệm, Việt Minh để lại 350 xác chết, trận Yên cư Hạ đầu tháng 6/1951 Việt Minh cũng đánh biển người nhưng không hạ đươc đồn. Toàn bộ chiến dịch bờ sông Đáy Việt Minh tổn thất 10,000 người, Pháp mất 2,500 người. De Lattre đánh bại Võ nguyên Giáp mấy trận liên tiếp cứu vãn sự sụp đổ của miền Bắc trước những trận thí quân điên cuồng của địch.

Pháp thắng lợi về quân sự nhưng thất bại về chính tri, quân Pháp quá tàn bạo, trong các cuộc hành quân vào làng, chúng cướp bóc, hãm hiếp đốt nhà, bắn giết tàn bạo lương dân vô tội, hành động khát máu của lính Tây đã vô tình đẩy người dân về phía đối phương, ngay cả báo chí tại Ba Lê cũng đã phơi bầy cho dân chúng thấy tội ác của bọn thực dân. Năm 1952 De Lattre chết vì bệnh ung thư. Salan lên thay hành quân càn quét Hòa Bình, Việt Minh đánh thí quân tàn bạo, người chết như rạ vậy, Pháp phải rút khỏi Hoà Bình, Việt Minh chết 5,000 người.

Mặc dù những trận biển người không đạt thắng lợi về quân sự nhưng người Pháp đã phải run sợ trước một kẻ thù cố đấm ăn xôi, đánh thí mạng cùi. Người Pháp ngày càng ghê sợ chán ghét chiến tranh Đông Dương. Chiến sự ngày càng leo thang ác liệt, năm 1953 quân Pháp đã tăng 450,000, trong số đó lính Pháp và Bắc Phi khoảng 150,000 còn lại là người bản xứ. Việt Minh nay có 125,000 chính qui, 75,000 địa phương quân và 150,000 du kích. Quân đội Quốc Gia Việt Nam cuối 1953 có khoảng 150,000 chủ lực và 50,000 phụ lực quân, trang bị còn yếu kém chưa đủ sức chống Việt Minh.

Người Pháp đang tìm cách rút chân ra khỏi bãi lầy, tướng Salan mất tinh thần dự định rút quân xuống dưới vĩ tuyến 16 bỏ miền Bắc nay đã bị Việt Minh làm cho ung thối, dân Pháp đa số chán ghét chiến tranh Đông Dương vì tốn kém tiền bạc và thiệt hại nhiều nhân mạng, họ muốn rút lui càng sớm càng tốt. Tháng 5/1953 Navarre được cử sang làm tư lệnh quân viễn chinh, mỗi tư lệnh có một kế hoạch khác nhau. Navarre bi quan vì năm 1950 viện trợ quân sự Mỹ cho Pháp mới có 17%, nay đã lên tới 75%, mọi chi phí quân sự nay đa số do Mỹ đài thọ, Pháp biết rằng dù có thắng trận cũng mất Đông Dương vì hiện đã mất chủ quyền. Tổng số quân Đông Dương nay là 444,000, Pháp và Bắc phi là 125,000, lính bản xứ và Quân Đội Quốc Gia là 320,000, không quân có 550 máy bay đủ các loại, 390 tầu chiến, nhưng chủ lực quân vẫn thua Việt Minh. Người Pháp chuẩn bị Việt Nam hoá chiến tranh.

Navarre cho trấn đóng Điện Biên Phủ cách Hà Nội 300 cây số ngăn chận Việt Minh qua ngả Lào và ngăn chận đường tiếp tế từ Trung Hoa, Việt Minh buộc phải lâm trận nếu không sẽ tuyệt đường sinh lộ. Võ Nguyện Giáp chỉ huy trận đánh đưa vào đó trên năm sư đoàn, tổng cộng độ 60,000 người, chưa kể du kích địa phương, nhiều vũ khí nặng như 36 khẩu cao xạ, 150 đại bác và súng cối. Trung Cộng xử dụng 600 xe vận tải chở tiếp tế cho Việt Minh, họ kéo đại bác lên các ngọn đồi và dấu vào hang.

Lực Lượng Pháp gồm 15,000 đa số là lính nhảy dù, trong đó 4,500 là lực lượng không tác chiến. Pháp xây nhiều pháo đài kiên cố xong phạm phải lỗi lầm trầm trọng là khai quang lòng chảo khiến nơi đây trở thành miếng mồi ngon cho pháo binh địch trên đồi bắn xuống. Trận chiến bắt đầu từ 13/2/1954, Việt Minh ra sức đánh để lấy ưu thế tại bàn Hội nghị Genève đã khai mạc từ 26/4/1954.

Trận đánh kết thúc 7/5, Việt Minh chết 25,000 người gấp 6 lần Pháp để đổi lấy chiến thắng. Pháp có 4,000 tử thương, 8,000 bị bắt làm tù binh nhưng chỉ có một phần ba sống sót sau khi trao trả. Trong suốt cuộc chiến 1947-54 Việt Minh chỉ thắng được hai trận lớn là Cao Bắc Lạng 1950 và Điện Biên Phủ 1954, trong những năm 1951, 52, 53 dù đã đẩy bao thanh niên vào họng súng đại liên của địch mà họ vẫn không chiếm được mục tiêu. Những trận đánh biển người ấy đã đạt thắng lợi chính trị tâm lý, nó khiến cho đối phương phải run sợ tinh thần liều mạng cố đấm ăn xôi của địch.

Pháp quá ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương, quốc hội lật đổ chính phủ Laniel, Mandes Frances lên thay 14/5 để sớm chấm dứt chiến tranh, ký hiệp ước rút quân ra khỏi Đông Dương. Trong suốt cuộc chiến tranh 1947-54, tổng cộng 19 chính phủ Pháp bị lật đổ vì không giải quyết được chiến tranh, ngày 20/7/1954 Pháp sợ quá vội ký hiệp định để rút quân. Hội nghị Genève kết thúc, Việt Minh và Pháp ký kết Hiệp Định ngày 20/7 chia đôi đất nước, quân Pháp vàChính phủ Quốc Gia rút vào Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời để chờ tổng tuyển cử thống nhất hai miền. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Mỹ không ký vào bất cứ văn kiện nào của Hiệp định.

Chiến tranh Đông Dương là một cuôc chiến tranh không giới tuyến. Tổng cộng có 100,000 quân Pháp tử trận tại Đông Dương, 75,000 người bị thương, 30,000 bị bắt làmtù binh nhưng chỉ có 10,000 sống sót được thả về. Sau 1955 Pháp cho biết tiền chi phí chiến tranh Đông Dương của họ có thể mua cho mỗi người dân Pháp một căn nhà và một cái xe hơi. Việt Minh không công bố tổn thất nhưng thường là gấp bốn hoặc gấp năm vì họ đánh biển người và không có cứu thương, y tế. Tổng cộng có hơn nửa triệu người chết cho một cuộc chiến tranh vô ích. Có người nói cuộc chiến 1947-54 là cuộc chiến tranh giành độc lập nhưng thực ra nó chỉ núp dưới danh nghĩa giải phóng dân tộc. Đó là cuộc chiến tranh giữa Thế giới tự do và Cộng Sản Quốc tế do Mỹ và Trung Cộng đứng sau lưng.

Trước thế chiến thứ hai trên thế giới chỉ có một mình nước Nga theo Cộng Sản. Năm 1945 khi đánh Đức Quốc Xã, được thoả thuận của Mỹ Nga chiếm luôn Đông Âu và thành lập một lô chính quyền Cộng Sản chư hầu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Albany, Nam Tư. . Cũng sau 1954 Triều Tiên bị chia đôi, miền Bắc thuộc Nga theo Cộng sản, sau 1949 Mỹ bỏ rơi Tưởng Giới Thạch, Trung Hoa trở thành nước Cộng Sản hung hăng gây chiến tranh Triều Tiên 1950 và yểm trợ Việt Minh đánh Pháp. Mỹ phải nhẩy vào Đông Dương để ngăn chặn nguy cơ bành trướng của Cộng Sản, nếu mất Đông Dương họ sẽ dần dần mất hết Á Châu, rồi mất Âu châu và theo lời của Tổng Thống Eisenhower "Cuối cùng Hoa Kỳ sẽ bị bao bọc bởi biển đỏ, chúng ta sẽ phải xây một bức Vạn Lý Trường Thành thứ hai để chống ngoại xâm". Đó là sự hình thành của thuyết Domino.

Thủ tướng Bửu lộc lên chấp chánh từ đầu năm 1954, theo chủ trương của Quốc trưởng ông vận động đòi trao trả độc lập, ngày 4/6/1954 chính phủ Pháp chấp thuận trao trả nền độc lập trên toàn lãnh thổ cho chính phủ Quốc Gia Việt Nam, nhưng chỉ được 46 ngày vì đến 20/7 hai bên ký kết hiệp định Genève. Ngày 7/7/1954 thủ tướng Ngô Đình Diệm về chấp chính thừa hưởng nền độc lập trên một nửa đất nước. Năm 1955 ông Ngô Đình Diệm đánh Bình Xuyên Hoà Hảo, truất phế Bảo Đại thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà.

Tháng 7 năm 1957 Phạm Văn Đồng gửi văn thư cho ông Ngô đình Diệm xin hợp thương để tiến tới thống nhất hai miền, văn thư rất trang trọng: Kính thưa Tổng thống.. Nhưng chính phủ miền Nam từ chối, báo chí mỉa mai lời đề nghị, người ta đã quá rõ cái trò xảo trá của Việt Minh qua kinh nghiệm xương máu 1945. Năm 1954 chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Mỹ không ký vào bất cứ văn bản nào của Hiệp Định nên miền Nam không bị ràng buộc tí nào vào Hiệp Định.

Thất bại trong việc xin hợp thương, Bắc Việt cho phát động chiến tranh xâm chiếm miền Nam, sống chết chúng cũng phải chiếm cho được cái vựa lúa miền Nam. Năm 1956 có 274 hầm vũ khí bị khám phá, năm 1957 Việt Cộng sát hại 470 cán bộ Quốc gia tại các tỉnh, năm 1959 chúng đưa 5,000 cán bộ tập kết vào Nam hoạt động. Lê Duẫn vào Nam hoạt động hai ba lần từ 1957-59, năm 1960 được Hồ cho làm Bí thư thứ nhất Đảng. Năm 1958 Bắc Việt đưa cán bộ vào Nam tuyển lính, đầu năm 1959 Việt Cộng có 40 ngàn du kích, 10 ngàn địa phương quân, 3,500 chính qui, 20/12/1960 chúng thành lập Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Mới đầu chúng xử dụng vũ khí bén nhọn, dao găm, mã tấu để giết trưởng ấp, sau dùng vũ khí cá nhân rồi dần dần đánh cấp tiểu đoán, trung đoàn. Năm 1961 chính phủ miền Nam tuyên bố tổ quốc lâm nguy, địch đã đánh cấp trung đoàn. Năm 1963 chúng thành lập 3 công trường tức sư đoàn 5, 7, 9. Miền Nam ngày càng bị du kích quấy phá làm cho ung thối, hai chính phủ Mỹ- Việt bất đồng ý kiến, người Mỹ đòi đem quân vào cứu nguy, chính phủ Việt Nam không chấp thuận vì muốn giữ chủ quyền. Năm 1964 sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà bị lật đổ, chính trị miền Nam rối loạn, các tôn giáo tranh giành ảnh hưởng, tướng lãnh tranh quyền, biểu tình, tuyệt thực, chỉnh lý, đảo chính lu bù . . khiến cho Bắc Việt thừa cơ nước đục thả câu đưa quân xâm nhập miền Nam. Năm 1964 Johnson đắc cử Tổng thống Mỹ, leo thang chiến tranh Việt Nam dữ dội.

Sau vụ tầu Maddox bị tầu Bắc Việt tấn công, Mỹ oanh tạc Bắc Việt liên tục, ném bom kho xăng, kho đạn, xe lửa, phá cầu . . năm 1966 lên tới 165,000 vụ. Từ giữa năm 1965 Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam cuối năm tổng số binh sĩ Mỹ tại miền Nam lên tới 180,000, năm sau 1966 tăng lên 380,000, năm 1967 tăng lên 468,000, năm sau 1968 lên tới đỉnh cao 538,000. Tháng 4 năm 1969 tướng Wesmoreland cho biết năm 1965 nếu Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam sẽ mất trong 6 tháng. Bắc Việt cũng đưa quân ồ ạt vào miền Nam, mặc dù bị tổn thất nặng nề, từ 1965-67 Cộng quân mất 340,000 người, nhưng vẫn gia tăng xâm nhập năm 1964 là 180,000, năm 1967 tới 260,000. Bắc Việt đã trở thành quân tốt quá lợi hại của khối Cộng Sản quốc tế nên Nga, Tầu, Đông Âu không nề hà tiếp viện vũ khí lương thực dồi dào cho cả hai chiến trường miền Nam miền Bắc. Tháng 10 năm 1967, liên danh Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ thắng cử cuộc bầu cử Tổng thổng, chấm dứt thời khủng hoảng chính trị biểu tình, tuyệt thực.

Năm 1965, 66, 67 Bắc Việt đụng độ nhiều trận với Mỹ, chúng bị tử thương nhiều vì hoả lực Mỹ mạnh, nhanh chính xác, pháo binh và không quân Mỹ bắn như mưa bấc khiến bộ đội Bắc Việt không dám đánh trực diện với Mỹ. Khu vực đụng độ thuờng là duyên hải, cao nguyên, giới tuyến, biên giới Việt Miên. Mặc dù bị tổn thất nặng nề chúng vẫn theo đuổi chính sách cố đấm ăn xôi thí quân hằng hà sa số y như từ thời đánh Pháp trước kia. Năm 1967 Việt Cộng vờ hòa hoãn muốn hòa đàm với Mỹ để chuẩn bị trận Tết Mậu Thân, Bắc Việt chuẩn bị tổng công kích y như Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945. Hà Nội điều động khoảng 100 tiểu đoàn cho kế hoạch, trong khi giả vờ pháo kích Khê Sanh để đánh lạc hướng.

Tối ba mươi tết Việt Cộng đồng loạt tấn công 28 tỉnh lỵ và thị trấn, sáng hôm sau mồng một tết Việt Cộng tấn công Sài Gòn Chợ Lớn. Mặc dù có yếu tố bất ngờ nhưng trừ Sài Gòn, Huế các tỉnh đã đánh bật Cộng Sản ra khỏi thành phố, sau 12 ngày hành quân giải toả địch đã bị đẩy lui ra khỏi Sài Gòn. Huế bị chiếm 26 ngày, cuộc chiến tại đây thê thảm kinh hoàng, khi rút lui Việt Cộng đã chôn sống tàn sát khoảng tám ngàn người. Trận Mậu thân là một thất bại lớn về quân sự cho Cộng sản, sự tổn thất được coi như mười đổi một, Bắc Việt thú nhận đã mất trên 100 ngàn quân, cơ sở nằm vùng bị bại lộ. Mặc dù thất bại về quân sự nhưng chúng gây được tiếng vang ảnh hưởng tới phong trào phản chiến Mỹ. Tháng 3/1968 Johnson ngưng oanh tạc phần lớn lãnh thổ Bắc Việt kêu gọi đàm phán nếu không sẽ cho nếm mùi sức mạnh, Bắc Việt sợ hãi phải nhận lời, hoà đàm bắt đầu từ 4/1968.

Tình hình chính trị, xã hội của miền Nam Việt Nam không được ổn định cho lắm, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng thối nát, mua quan bán tước. Bất công xã hội thì thật là ghê tởm, tại Sài Gòn và các thành phối lớn thương gia làm giầu nhanh chóng xây nhà năm bẩy từng đầy cả ra trong khi ngoài mặt trận binh sĩ chết như rạ vậy. Mỹ đổ quân tham chiến tại Việt Nam đến nay đã được 4, 5 năm, người dân Mỹ nay quá chán ghét chiến tranh Việt Nam, họ biểu tình phản đối chính phủ khắp nơi vì thấy không giải quyết được cuộc chiến và ngày càng lầy, số binh sĩ Mỹ tử thương ngày càng cao, năm 1965 có 1,300 người, năm 1966 tăng lên 5,000, năm 1967 tăng 9,000, năm 1968 lên tới 14,000. Chi phí quân sự cũng leo thang dữ dội, năm 1964 mới có 400 triệu, năm 65 là 600 triệu, năm 1966 vọt lên 6 tỷ, năm 1967 tăng lên 20 tỷ, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 29 tỷ. .

Lý do chính của phong trào phản chiến là số tử vong ngày một cao, tâm lý anh nhà giầu thường sợ chết. Cuộc chiến giữa Mỹ và Bắc Việt không cân xứng về hoả lực và nhất là về mặt tinh thần, một bên là anh nhà giầu sợ chết, một đằng là thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi. Từ 1965 cho tới cuối 1968 tổng số quân nhân Mỹ tử thương mới có 30,000, chỉ bằng 1/10 số lính Nga, Đức chết trong trận Stalingrad năm1942 hay trận Bá Linh năm 1945, nhưng người Mỹ vô cùng quí trọng sinh mạng của họ, cho rằng chỉ có họ mới là đáng sống. Những người biểu tình đã cầm danh sách những người tử trận đọc cả tiếng đồng hồ trước đám đông. Riêng năm1968 theo bộ trưởng quốc phòng Laird, Cộng quân đã mất 290 ngàn tại miền Nam nghĩa là gấp 20 lần số tổn thất của Mỹ cùng năm1968. Đó thật là một điều mâu thuẫn, người Mỹ thích làm người hùng diệt gian trừ bạo như trong các phim ảnh miền Tây, thích làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết!

Năm 1969 Nixon đắc cử lên nhậm chức Tổng thống tháng ngày 20/1, ông hứa sẽ giải quyết chiến tranh Việt Nam, hoà bình trong danh dự. Mỹ không rút tỉa được kinh nghiệm của Pháp trong cuộc chiến tranh 1947-54 trước đây nhưng họ lại đi vào vết xe đổ của bọn thực dân, quá tin tưởng vào hoả lực vũ bão của mình nên đã bị sa lầy. Tháng 4/1969 tướng Wesmoreland, cựu tư lệnh Mỹ tại Việt nam và đô đốc Sharps phúc trình về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua, dài 347 trang cho biết quân đội Mỹ đã bị bó tay vì chính sách hạn chế chiến tranh củaTổng thống Mỹ Johnson, không cho đánh qua Miên, Lào.

Đô đốc Sharp cựu tư lệnh Thái bình Dương đăng báo công kích cựu bộ trưởng quốc phòng Mc Namarra không cho oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn cản xâm nhập nên các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu, Hoa Kỳ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội chiến thắng Cộng Sản. Các cựu tương lãnh chỉ trích chiến tranh hạn chế của chính phủ, Johnson không dám mở rộng sợ Trung Cộng nhảy vào có thể gây thế chiến.

Năm 1969 đánh dấu một khúc quành quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ rút quân thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh (Vietnamesation, Viet namizing the war). Mầm mống của sự bỏ rơi miền Nam bắt đầu, theo cựu bộ trưởng quốc phòng Melvin R. Laird, Hoa kỳ chưa muốn bỏ Việt Nam nhưng muốn giao lại cho người Việt tự giải quyết với nhau. Lý do của sự rút quân như chúng ta đều đã biết vì phong trào phản chiến đã lên quá cao, cũng như người Pháp năm 1954, dân Mỹ đòi chính phủ sớm rút quân, lấy tù binh về nước.

Nhưng theo ông Laird tiết lộ mới đây, năm1969 Nga -Tầu từ bạn thành thù, ngày càng công kích nhau dữ dội, hiểm hoạ Cộng Sản không còn đe dọa nặng nề như trước, thuyết Domino không còn đứng vững, có nghĩa là nếu mất Đông Dương thì Á châu vẫn còn tồn tại. . đó là những ý nghĩ manh nha cho sự bỏ rơi toàn cõi Đông Dương của Mỹ. Từ tháng 6/1969 Mỹ bắt đầu rút quân, tới cuối 1969 rút đợt đầu tiên 60,000 người, trong năm 1970 rút trên 200,000 người, năm 1971 rút 150,000. . đến 72 chỉ còn 70,000 quân, họ đổ quân vào ồ ạt rồi rút lui êm thắm. Mỹ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh và ngấm ngầm tìm cách bắt tay với Trung Hoa đỏ và đã có ý định thực hiện kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ"

Cuối năm 1965 quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào khoảng 600,000, giữa năm 1966 tăng lên tăng lên 700,000, năm 1968 lên tới hơn 800,000, giữa năm 1969 tăng lên 940,000 và cuối năm 1969 tăng lên một triệu người nhưng thực ra lực lượng tác chiến, lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn và 15 liên đoàn biệt động quân. Năm18/3/1970 Quốc hội, Hội đồng Hoàng Gia Miên bỏ phiếu truất phế Sihanouk khi nhà vua đi Nga, cử Lon Nol lên thay. Cuối tháng 4/1970 Đỗ Cao Trí hành quân sang Miên đánh Việt Cộng chạy có cờ.

Chiến sự vẫn leo thang khiến dân chúng Mỹ lại biểu tình chống đối dữ dội, tháng 11 năm1969 có khoảng 300,000 người biểu tình phản chiến tại Hoa Thịnh Đốn, năm 1970 phản chiến bộc phát mạnh hơn vì Nixon giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh sang Mên. Tại đại hoc Kent, Ohio ngày 4/5/1970 sinh viên biểu tình có sô sát bị lính bắn chết 4 người, 10 người bị thương như đổ dầu vào lửa khiến tình hình càng gay cấn hơn, cuối 5/1970 trên 400 đại học Mỹ bãi khoá biểu tình chống chính phủ, ngày 18/5/1970 khoảng 100,000 người biểu tình trước toà Bạch Ốc, Nixon vẫn cứng rắn với nhóm phản chiến.

Đầu năm 1971 ta thừa thắng mở chiến dịch Hành quân Lam sơn 719 sang Lào gồm sư đoàn nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, Liên đoàn Một Biệt động quân, thiết kỵ. . tổng cộng 17,000 người. Kế hoạch do Mỹ soạn thảo. Bộ Tư lệnh Quân khu 1 của Tướng Hoàng Xuân Lãm tập hợp ban bố lệnh hành quân 3/2/1971 nhưng đài BBC, VOA đã loan báo cuộc hành quân 6 tiếng đồng hồ trước đó. Năm ngày trước khi hành quân MACV vô tình để lộ tin nên Hà Nội biết trước.

Bắc Việt đưa các sư đoàn có đại bác 130 ly, xe tăng, đông gấp bội Quân đội Việt Nam Cộng Hoà tiến đánh, ta phải rút lui, 1,700 chết, 3,500 bị thương, 2,500 mất tích, Mỹ chết 200, 1,000 bị thương, 100 máy bay bị hạ, tuy nhiên Bắc Việt cũng bị thiệt hại nặng, 500 xe vận tải, 90 xe tăng, 13 đại bác, 100 súng phòng không . . bị phá hủy, 10,000 quân tử thương. Quân đội ta thất bại vì hành quân vào một địa thế hiểm trở với 17,000 quân trong khi lực lượng địch có tới 60,000.

Hoà đàm Ba Lê khai mạc từ tháng 5/1968 đến nay vẫn chưa đạt được thỏa thuận nào, Bắc Việt lợi dụng ngưng oanh tạc, lợi dụng hoà đàm để chuyển quân vào Nam, "Việt Cộng miệng nói hoà bình tay rình đánh trộm". Tháng 11/1969 tướng Wesmoreland ở Mỹ nói nếu cứ tiếp tục oanh tạc thì đã thắng rồi, Mỹ đã mắc lừa Bắc Việt. Năm 1971 Nguyễn Văn Thiệu độc diễn tiếp tục làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà nhiệm kỳ hai, chế độ Thiệu đã được coi như tham nhũng thối nát nhất từ ngày có chính phủ Quốc Gia Việt Nam 1949 cho đến nay.

Quân Mỹ đã rút gần hết, đến đầu năm 1972 chỉ còn 70,000 quân. Trưa ngày 30/3/1972 Văn Tiến Dũng chỉ huy ba sư đoàn 304, 308, 324 và năm trung đoàn độc lập, xe tăng, pháo binh . . ồ ạt vượt sông Bến Hải. Quân ta rút về Nam, tại Carrol ta bị bao vây phải thua hàng, mất 1,000 người và 22 đại bác. Quân ta thắng tại Đông Hà, Phượng Hoàng. Tình hình lắng dịu 2 tuần. Sài Gòn tăng cường 3 liên đoàn Biệt Động quân, ta phản công từ 19/4 đến 23/4 thì Bắc Việt gửi thêm sư đoàn 325, lữ đoàn thiết giáp và một số đơn vị của ta phải rút lui. Thế là dân Quảng Trị hoảng hốt gồng gánh bỏ chạy ra quốc lộ Một, pháo binh Việt Cộng bắn theo chết cả chục ngàn người trên đại lộ Kinh Hoàng, Huế cũng bỏ chạy nhưng Việt Cộng không dám chiếm vì sợ Mỹ trở lại.

Ngày 6/4/1972 năm ngày sau trận Quảng Trị, sư đoàn 5 Việt Cộng đánh Lộc ninh. Quân ta rút về thị xã An Lộc, Bắc Việt chiếm Bình Long để lập thủ đô mặt trận sau đó đánh Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng chỉ huy toàn bộ lực lượng ta độ 7,000 người, lực lượng Việt Cộng gồm ba sư đoàn 5, 7, 9 tổng cộng độ 25,000 quân có pháo binh, xe tăng yểm trợ. Ta điều động sư đoàn 21 từ vùng Bốn về, địch pháo 10,000 quả vào An Lộc. Chiến xa địch rầm rộ tiến vào thị xã bị quân ta bắn cháy mấy chục chiếc, sư đoàn 21 tiến rất chậm vì bị địch chận đánh, ta đổ bộ lữ đoàn dù xuống An Lộc bị vây chặt. Thị xã bị vây hãm từ giữa tháng 4, địch pháp 1,000 quả mỗi ngày. Mỹ yểm trợ phi pháo B52 gây thiệt hại cho sư đoàn 5 Việt Cộng nên chúng rút dần, ngày 11 và 12 /5 có 40 xe tăng Việt Cộng bị hạ, 5 chiếc đầu hàng, ba sư đoàn địch phải rút về biên giới, quân ta đã anh dũng giữ được trận địa. Bắc Việt nay đã trở thành quân tốt quá lợi hại cho khối Cộng Sản quốc tế vì có khả năng gây xáo trộn chính trị, xã hội, kinh tế ngay trong lòng Đế quốc. Nga Tầu ngày càng yểm trợ tích cực cho Bắc Việt và ngầm thúc đánh Đế quốc tới cùng, từ 1970 trở đi Bắc Việt có khả năng đánh những trận qui mô với nhiều xe tăng, pháo binh, cao xạ.

Ngày 21 cho đến 28/2/1972 Nixon đi Tầu, báo đăng hình Tổng thống Đế quốc bắt tay Mao xếng xáng. Sau bao nhiêu năm chiến tranh với Bắc Việt nay Mỹ đã chiêu hồi được Trung Quốc. Cái bắt tay lịch sử giữa Mao và Nixon đã thay đổi cả một kỷ nguyên tại Á châu, họ buôn bán trên xương máu của hằng triệu người Việt của cả hai miền Nam Bắc.

Bao nhiêu người Việt đã ngã gục trên chiến trường để họ chiêu hồi được Trung Quốc. Từ 20 đến 29/5/1972 Nixon đi Nga, cuối tháng 5 Nixon cho phong toả cảng Hải Phòng. Tháng 8/1972 với 6,000 phi vụ yểm trợ với các sư đoàn Dù, Thủy quân lục chiến, sư đoàn Một..đại quân ta tái chiếm Quảng Trị, 6 sư đoàn Bắc Việt phải tháo lui, trận đánh kéo dài 3 tuần lễ, bom đạn đổ xuống ào ào.

Ngày 12/9 ta dựng cờ trên cổ thành Quảng Trị, Trung tướng Ngô quang Trưởng chỉ huy trận đánh, đại quân ta toàn thắng. Trong chiến dịch mùa hè đỏ lửa 1972 Bắc Việt đã tung vào trận đánh trên 10 sư đoàn, tướng Cao Văn Viên và Ngô quang Trưởng nhìn nhận quân ta giữ được An Lộc và chiếm lại được Quảng Trị một phần đáng kể cũng là nhờ yểm trợ của không quân Mỹ. Từ trận Mậu thân cho đến nay, chỉ trừ trận Hạ Lào, Quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã đánh bại Bắc Việt nhiều trận lớn. Mặc dù Bắc Việt đã đánh thí quân ồ ạt mà vẫn không đạt được thắng lợi, tuy nhiên nó có tác dụng thúc đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Mỹ cũng như tại miền Nam để làm nản lòng Quốc hội và Hành pháp Mỹ.

Ngày 13/12/1972 Bắc Việt ngoan cố, Lê Đức Thọ hỗn láo không thèm họp tại Ba Lê. Nixon bèn cho B52 ném bom vào các vùng phụ cận Hà Nội, Hải Phòng từ 18/12, oanh tạc các kho dầu dự trữ, đường xá. . 80% hệ thống điện hư hại, 3/4 trục lộ tiếp vận ngưng trệ, ngay hôm 18/12 liên lạc giữa trung ương và địa phương bị cắt đứt. Cuộc oanh tạc kéo dài 12 ngày, Mỹ thiệt hại tổng cộng 80 máy bay trong đó có 32 cái B52, Bắc Việt phóng hơn 1,000 hoả tiễn SAM, chúng sả láng tất cả số hoả tiễn.

Việt Nam Cộng Hoà bị ép phải ký hiệp định Paris, Mỹ hứa sẽ can thiệp nếu sau này Cộng sản vi phạm hiệp định. Bắc Việt chịu ngồi lại bàn hội nghị, hai bên ký kết hiệp định Paris ngày 28/1/1973 sau hơn 4 năm tranh cãi. Mỹ lấy về được 587 tù binh, rút hết quân về nước. Hà Nội không bị đòi hỏi phải rút quân hết về Bắc mà vẫn còn được để lại trên 200,000 quân tại miền Nam. Cả thế giới vui mừng hòa bình cho Việt Nam, chiến tranh chấm dứt, người dân miền Nam cũng hân hoan phấn khởi không có ai nghĩ rằng ngày tận thế của Việt Nam Cộng Hoà đã gần kề.

Theo thống kê của Ngũ giác đài, cuộc chiến tranh Việt Nam mất 300 tỉ được coi là tốn kém nhất của Hoa kỳ từ trước đến nay, số lính Mỹ tử thương là 58,000 người, quân đội Việt Nam Cộng Hoà mất 180,000 người, Bắc việt có khoảng một triệu lính tử thương, Mặt trận Giải Phóng mất trên một trăm ngàn, thường dân cả hai miền Bắc Nam khoảng hơn một triệu người chết, số bom ném tai Việt Nam gấp 3 lần số bom đã ném tại Âu châu trong suốt thời Đệ nhị thế chiến.

Như chúng tôi đã nói ở trên những năm 1967, 68, 69 quân phí chiến tranh Việt Nam là 20 tỉ, 26 tỉ, 29 tỉ. Đến 1970, 71 . mỗi năm chỉ còn 12 tỷ, nhưng sau khi ký hiệp định Paris Mỹ rút quân, miền Nam phải một mình gánh vác chiến trường mà viện trợ quân sự lại bị cắt giảm chi phí. Năm 73 tài khoá chỉ còn 2 tỷ 1, năm 74 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 75 chỉ còn 700 triệu. Một số lớn săng dầu đạn dược được dốc vào trận chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa năm 1972.

Sau khi ký hiệp định Paris quân viện giảm, năm 1974 tiếp vận bi đát, máy bay không có cơ phận thay thế phải nằm ụ trong bãi đáp, quân xa thiếu săng, đại bác thiếu đạn, năm 1974 hai bên vẫn giao tranh nhiều trận, tử vong ta lên cao khi tiếp vận xuống. Sau này theo tiết lộ của Bộ Tổng tham mưu vì giảm quân viện nên không quân đã cho hơn 200 máy bay ngưng bay, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện, thám thính 50%. Các hoạt động hải quân cắt giảm 50%, 600 tầu bè, giang đĩnh phải nằm ụ, chiến cụ hư hỏng không được thay thế. Hoả lực giảm 60%, năm 1972 quân đội ta xử dụng 66,000 tấn đạn trong một tháng, từ 7/1974 cho đến tháng 3/1975 chỉ xử dụng 18,000 tấn trong một tháng. Tổng số đạn dược chỉ còn đủ đánh cho tới tháng 6/1975, tất cả được giữ kín như bưng không cho ai hay biết.

Cái gì phải đến đã đến, tháng 8/1973 Quốc hội Hoa kỳ ra dự luật quyết định chấm dứt can thiệp quân sự, cấm chính phủ can thiệp trở lại Việt Nam, cấm trả đũa nếu Hiệp định Paris bị vi phạm. Ngày 10/9/1973 phó Tổng thống Agnew từ chức vì bị tố cáo trốn thuế, Nixon cử dân biểu Ford lên thay, ngày 9/8/1974 Tổng thống Nixon từ chức vì vụ Watergate, Ford lên làm Tổng thống. Người dân miền Nam cả tin Hiệp định Paris bảo đảm có bình lâu dài, họ nghĩ dù Việt Cộng có tấn công cũng sẽ bị quân ta đẩy lui như các trận Mậu thân, An Lộc, Quảng trị . . trước đây. Cuối năm 1974 các đoàn thể, tôn giáo Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hoà Hảo. . biểu tình hoặc phản đối chính phủ Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng thối nát khiến cho tình hình chính trị trở nên căng thẳng.

Từ sau Hiệp định Paris, Bắc Việt được khối Cộng Sản Quốc tế tiếp viện dồi dào và khuyến khích mở đại chiến dịch xâm lăng miền Nam. Cộng quân âm thầm xử dụng 16,000 xe vận tải chuyển vận vũ khí ngày đêm chuẩn bị cho cuộc tấn công đại qui mô đánh chiếm miền Nam, 500 xe tăng và 350 đại bác được đưa thêm vào chiến trường. Chiến dịch được thực hiện dần dần từ cuối 1974, địch dự trù phải mất hai năm hoặc một năm rưỡi để nuốt trọn miền Nam. Ngày 13/12/1974 Việt Cộng đưa 3 sư đoàn có xe tăng pháo binh yểm trợ đánh Phước Long để thăm dò phản ứng Mỹ.

Quân ta gồm năm tiểu đoàn địa phương quân, 48 trung đội nghĩa quân, một tiểu đoàn tăng cường thuộc sư đoàn 5 chiến đấu anh dũng. Sau 2 tuần Việt Cộng chiếm được 4 quận, ta thả đại đội biệt kích dù xuống để giải toả nhưng không cứu vãn được tình thế. Lực lượng địch quá mạnh, ngày 7/1/1974 toàn bộ tỉnh Phước Long thất thủ, tổng số 5,400 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà chỉ có 850 người sống sót, tỉnh trưởng mất tích.

Lần này Bắc Việt đánh để thăm dò phản ứng Mỹ, Tướng Nguyễn Văn Thiệu cũng cố tình để mất Phước Long hy vọng lôi kéo Mỹ trở lại nhưng họ chỉ phản đối xuông. Bắc Việt biết chắc Mỹ đã bỏ miền Nam nên không ngần ngại đem đại binh tấn công ồ ạt nuốt trọn hết. Địch chủ trương đánh Quân khu 2 vì đó là chỗ yếu nhất, nơi đây gồm 13 tỉnh mà chỉ có hai sư đoàn (22, 23) trấn giữ, chúng cắt quân khu 2 để cô lập quân khu 1 rồi thôn tính tiếp luôn. Địch tung vào chiến dịch đại qui mô này 17 sư đoàn, một lực lượng hùng hậu nhất từ trước đến nay, ngoài ra còn 3 sư đoàn tổng trừ bị thuộc quân đoàn 1 ở phía trên sông Bến Hải. Năm 1976 Việt Cộng tiết lộ trên báo chí vũ khí đạn dược của chúng năm 1975 được coi là gấp ba lần năm 1972.

Quân đội Việt Nam Cộng Hoà năm 1975 có khoảng hơn một triệu quân, 50% là địa phương quân, bộ binh chính qui 40%, còn lại là hải quân, không quân, cảnh sát, nhân dân tự vệ. . . lính nhà nghề thực sự chỉ có 11 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn tổng trừ bị và 15 liên đoàn biệt động quân, mỗi liên đoàn khoảng 2,000 người được bố trí như sau.

Quân khu Một lực lượng gồm 5 sư đoàn (1, 2, 3, Thuỷ quân lục chiến, Nhẩy dù) và 4 liên đoàn biệt động quân, 400 khẩu pháo, 450 xe tăng và thiết giáp, 96 máy bay chiến đấu.

Quân khu Hai gồm 2 sư đoàn, 7 liên đoàn biệt động quân, 380 khẩu pháo, 470 xe tăng thiết giáp, 138 máy bay chiến đấu.

Quân khu Ba gồm 3 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân, 650 xe tăng thiết giáp, 370 khẩu pháo và 250 máy bay chiến đấu.

Quân khu Bốn có 3 sư đoàn bộ binh, 380 khẩu pháo, 493 thiết giáp, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu, giang đĩnh.

Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng Mùa Xuân) nhận định tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đánh giá sai lực lượng Bắc Việt tưởng Cộng quân không mạnh bằng năm 1972. Văn Tiến Dũng cho rằng tướng Thiệu đã bố trí lực lượng sai vì tập trung sức mạnh ở hai đầu (Quân khu 3 và 1) mà coi nhẹ Quân khu 2, trong khi Bắc Việt chủ trương đánh Quân khu 2 "Ai làm chủ Tây nguyên thì làm chủ chiến trường". Lượng hai bên cân bằng nhưng vì miền Nam phải trại mỏng để giữ đất, Cộng quân lựa chọn chiến trường nên tại Vùng 1 và 2 theo Văn tiến Dũng bộ binh của Cộng quân gấp 5 ta, xe tăng và pháo binh không hơn gì mấy, về đạn dược địch trội hơn ta rất nhiều. Mùa hè đỏ lửa năm 1972 Bắc Việt đưa vào trận địa tổng cộng 10 sư đoàn, quân đội Việt Nam Cộng Hoà đạn dược tiếp liệu đầy đủ lại được không quân Mỹ yểm trợ trong khi năm 1975 Bắc Việt tung vào trận địa 20 sư đoàn, vũ khí đạn dược gấp 3 lần năm 1972, quân đội ta bị thiếu hụt về nhiên liệu đạn dược lại không được yểm trợ B52, tình thế quả là bi đát.

Bắc Việt áp dụng nghi binh tối đa, giả vờ áp lực Kontum, Pleiku, ba giờ sáng 10/3/1975, sư đoàn 320, 316, 10 đánh Ban Mê Thuột, địch đánh sân bay Phụng Dực, kho đạn, tiểu khu, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà tiến thẳng vào thị xã. Sư đoàn 316 tấn công trung đoàn 53 và liên đoàn 21 Biệt động quân. Hỏa lực địch quá mạnh nên Ban Mê Thuột bị thất thủ sau mấy ngày giao tranh, trung đoàn 53 chiến đấu anh dũng đến người cuối cùng. Tại quân Khiêm Đức Quảng Đức, chỗ giáp ranh Phước Long, một tiểu đoàn biệt động quân và mấy đại đội địa phương quân cầm cự anh dũng chống lại một lực lượng địch đông gấp mười lần.

Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố mất Ban Mê Thuột, Hạ viện Mỹ cắt 300 triệu, quân viện trong năm tới không được chuẩn chi, Việt Nam Cộng Hoà chỉ còn đủ đạn đánh trong 3 tháng. Ngày 11/3/1975 tại dinh Độc Lập Tướng Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng an ninh Quốc gia với các Tướng Trần thiện Khiêm, Cao Văn Viên, ĐặngVăn Quang. Ông cho biết nay lực lượng ta chỉ đủ sức giữ Quân khu 3 và 4, theo ông nên rút khỏi Kontum, Pleiku về giữ các tỉnh đồng bằng, nội dung chính buổi họp là bỏ Quân khu 1 và 2 chỉ giữ Quân khu 3 và 4 và một phần duyên hải Quân khu 2, các tướng lãnh đồng ý.

Ngày 14/3 Tướng Phạm văn Phú tư lệnh vùng Hai bay về Cam Ranh họp với các Tướng Thiệu, Khiêm, Quang, Viên, ông đề nghị cho rút theo tỉnh lộ 7 về Phú yên, Tuy Hoà. Tướng Phú có tiên đoán với Tướng Thiệu ở Cam Ranh " Tôi và các chiến hữu của tôi có chết ở cao nguyên bây giờ thì cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới". Một vị tướng tư lệnh vùng mà bi quan như thế thì cũng khó mà soay trở tình hình, chưa đánh mà đã biết trước là thua là chết thế thì đánh làm gì" Theo tướng Phú ta cố gắng cầm cự cho tới mùa mưa khi ấy cả hai bên sẽ không đánh nhau được, rồi tính sau. Thật là bi đát!

Cuộc di tản đường số 7 (dài 170 km) được giữ bí mật tuyệt đối không cho tỉnh quận biết, Tướng Phú và bộ tư lệnh quân đoàn đi trực thăng về Nha Trang bỏ lại chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo việc đôn đốc di tản làm 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, mỗi ngày một đoàn xe. Ngày đầu tiên 16/3 thì êm xuôi tới được Phú Bổn vì bất ngờ, hôm sau bị tắc nghẽn lưu thông vì dân chúng chạy theo, ngày thứ ba 18 cả 3 đoàn xe bị khựng lại vì Việt Cộng chận đánh, chúng pháo kích gây kinh hoàng cho đoàn dân quân di tản. Bắc Việt cho sư đoàn 320 di chuyển đánh Nam Phú Bổn, khi qua các cầu đoàn di tản bị Cộng sản đánh phá chết vô số, 300 xe trong số 12,000 chiếc, và 5000 quân trong số 20,000 người vượt đường máu tới được Tuy Hoà. Kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ chạy theo hỗn độn mất tinh thần ai cũng chỉ lo tháo thân. Tại Bình Định 2 trung đoàn thuộc sư đoàn 2 giao chiến với sư đoàn 3 Sao vàng, hai bên thiệt hại nặng một nửa quân số.

Ngày 27/3 sư đoàn 320 Bắc Việt tràn vào Tuy Hoà, sư đoàn F10 tràn ngập lữ đoàn 3 dù tại Khánh Dương, ngày 15/4 hai sư đoàn Bắc Việt tấn công phi trường Phan Rang, Tướng tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi, Tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân coi như mất tích, Cộng quân chiếm Ninh thuận ngày 16/4, Phan Thiết thất thủ ngày 18/4, Quân Khu 2 hoàn toàn bị Cộng Sản kiểm soát.

Di tản chiến thuật trên đường số 7 là một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh miền Nam nước Việt từ trước đến nay, nó đi đúng vào vết xe đổ của trận Cao Băc Lạng 1950, hễ tháo chạy là coi như vỡ nợ. Con số tổn thất rất là khủng khiếp, trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 liên đoàn Biệt động quân 7,000 người chỉ còn 900, 100 xe tăng chỉ còn 13 cái, ít nhất 75% lực lượng chiến đấu của quân đoàn 2 bị tiêu diệt, 400,000 dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 1/4 tới được Tuy Hoà, tổng số vũ khí quân trang quân dụng trị giá 253 triệu đã lọt vào tay địch, thiệt hại tinh thần to tát hơn vật chất. Sự thất bại của cuộc lui binh này đã kéo theo sự sụp đổ của Quân khu 1 và rồi của cả miền Nam Việt Nam. Thiệt hại về nhân mạng ít nhất cũng phải 50,000 người.

Từ xưa đến nay hầu hết những cuộc tháo lui đều bị địch chận đánh tơi bời tan nát, có lẽ chỉ có quân Nga hồi thế chiến Thứ Hai là ngoại lệ. Giữa năm 1941 Hitler tung 70% lực lượng của y gồm 170 sư đoàn bộ binh và cơ giới tấn công Nga, bị đánh bất ngờ, quân Nga chạy như vịt, 1500 máy bay ở phi trường bị phá hủy trong ba ngày đầu, 300 sư đoàn bị đánh tan trong 6 tháng. Chủ lực quân coi như bị tiêu diệt, một triệu ba trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh. . nhưng nhờ địa thế quá rộng quân Đức không thể đuổi kịp được lại nhờ mùa đông quá khắc nghiệt, quân Đức bị lạnh chết như rạ. Người Nga tự làm được vũ khí đạn dược nên hai, ba năm sau họ lật lại được thế cờ.

Tình hình Quân khu 1 gồm 5 tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi cũng bước vào giai đoạn vô cùng bi đát. Ngày 14/3 Tướng Thiệu cho rút sư đoàn dù về quân khu 3, Tướng Trưởng đưa liên đoàn Biệt động quân 14 thay vào, nghe tiếng xe tăng địch Biệt động quân hoảng hốt rút quân về Nam sông Mỹ Chánh.

Ngày 18/3 trên 10 sư đoàn Bắc Việt đồng loạt tấn công năm tỉnh, ngày 19/3 Quảng Trị mất, ngày 21/3/ 1975 2 sư đoàn Bắc Việt đánh Huế, hôm sau 23/3 Tướng Trưởng nhận lệnh Thiệu chỉ giữ Đà Nẵng thôi, thế là dân Huế lũ lượt bồng bế nhau chạy về Đà Nẵng, chiều 25/3 chưa đầy một tuần Quân khu 1 chỉ còn Đà Nẵng, các đơn vị sư đoàn 2, tiểu khu Quảng tín, Quảng Ngãi. . xuống tầu hải quân ra cù lao Ré hỗn loạn ghê gớm. Ngày 26/3 hai tầu dương vận hạm đến của Thuận An để chở Thủy quân lục chiến và chấm dứt vận chuyển 28/3, còn một số bị bỏ lại, địch pháo theo chết như rạ, xe cộ vứt ngỗn ngang. Cửa Tư hiền nước chẩy siết hải quân không thể đưa sư đoàn 1 qua sông nên tan rã, chỉ có 1/3 về tới Đà Nẵng. Tại Chu lai sư đoàn 2 chen nhau lên tầu về Bình Tuy cũng chỉ còn 1/2 quân số. Ngày 27/3 dân chạy vào Đà Năng gây náo loạn, Thừa Thiên đổ xuống, Quảng Nam Quảng Tín chạy ngược lên, Đà Nẵng dân số 300,000 nay phải chứa một triệu rưỡi, người ta nằm đầy gầm cầu, tha ma nghĩa địa, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Sáu sư đoàn Bắc Việt có xe tăng đại bác sắp tấn công, chúng pháo kích chính xác vào Đà Nẵng khiến dân chết như rạ, 28/3 Tướng Trưởng điện thoại cho tướng Thiệu xin lệnh, Thiệu nói Trưởng tùy cơ lo liệu.

Ngày 30/3 Đà Nẵng thất thủ 60,000 người bị bắt làm tù binh, quân khu 1 chỉ còn lại 16,000 lính di tản, quân dụng, súng đạn . . coi như mất hết hoặc bị phá hủy. Quân khu 1 mất dễ dàng trong vòng 10 ngày (19-30) gần như không có trận chiến nào dai dẳng nguyên do rút sư đoàn dù quá nhanh khiến dân hốt hoảng, tuyên bố tử thủ Huế sau lại bỏ Huế khiến dân chúng hoang mang, những tin đồn cắt đất khiến dân mất tinh thần. Cuộc di tản Quân Khu 1 nhất là tại Huế được mô tả là tồi tệ hơn Quân khu 2, cấp lớn được đưa về Đà Nẵng bỏ lại cấp nhỏ sinh ra bất mãn hỗn loạn, bắn giết nhau, thượng bất chính hạ tắc loạn.

Sự thực Quân khu 1 và 2 mất nhanh như vậy vì Tướng Thiệu quyết định bỏ hai vùng này như đã họp bàn hôm 11/3 tại dinh Độc lập. Sau này ông Cao văn Viên cho rằng kế hoạch bỏ Vùng 1 và 2 về giữ vùng 3 và 4 là đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Kế hoạch này có thể đúng về mặt quân sự nhưng về phương diện lương tâm đạo đức thì không thể chấp nhận được vì nó vô cùng bất nhân, bỏ đồng bào ruột thịt của mình lại để chạy tháo thân. Cuộc tháo lui ấy lại đi đúng vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 50 khi Pháp sợ quá hối hả rút quân bị Việt Minh chận đánh tan tành. Thực hiện kế hoạch lui binh rút bỏ Quân khu 1 và 2 tướng Thiệu đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi ngon lành, chúng tịch thu được nhiều xe cộ, vũ khí, đạn dược. . khiến cho đạo quân xâm lược của chúng tăng lên gấp bội, thật là giáo vào tay giặc. Nhiều người cho đây là trò nước bạc tháo cáy của Tướng Thiệu để hòng lôi kéo Mỹ trở lại nhưng không có hiệu quả gì.

Kế hoạch rút bỏ 2 quân khu đưa tới hỗn loạn khủng khiếp và đã khiến cho hằng hà sa số người thiệt mạng, không biết cơ man nào mà kể. Tướng Thiệu phải chịu trách nhiệm về những cái chết oan uổng của hằng trăm nghìn người. Cuộc tháo lui được coi là tồi tệ về mặt trách nhiệm, cấp chỉ huy tháo chạy bỏ lại cấp dưới gây ra làn sóng bất mãn đưa tới hỗn loạn ghê gớm. Có điều mâu thuẫn là thượng cấp bi quan chủ trương rút lui, nhưng tinh thần chiến đấu binh lính sĩ quan vẫn còn rất cao. Trên đường chạy loạn dân quân oán ghét ông Thiệu ngút trời xanh, chạy đến Phan Rang vì quá phẫn uất một đơn vị công binh đã lấy xe máy cày ủi sạch mồ mả trong nghĩa trang gia đình ông Thiệu rồi chửi rủa ầm ĩ.

"Đù má thằng Thiệu, tổng thống gì mà ngu quá, ủi sạch trơn mồ mả ông bà nhà thằng Thiệu đi"

Trong khi thượng cấp ra lệnh lui binh nhưng sĩ quan binh lính lại vô cùng phẫn uất vì không được đánh, họ chửi rủa ầm lên.

"Địt mẹ thằng Thiệu nó không cho đánh, nó cứ bắt phải rút mãi"

Một điều mâu thuẫn nữa là nếu biết trước sẽ thua vì hết đạn, hết nhiên liệu thì sao không đầu hàng ngay từ đầu lại cho rút quân đại qui mô làm chết bao nhiêu người một cách vô ích. Cuộc đại triệt thoái coi như hoàn toàn thất bại, vũ khí đạn dược, xe tăng đại bác coi như mất hết, các đơn vị tinh nhuệ bị tan rã gần hết có đơn vị chỉ còn 1/3 hay tệ hơn thế. Sau khi mất Quân khu 1 và 2, Quân khu 3 và 4 coi như không thể đứng vững được. Nếu trước đây tăng cường thêm lực lượng cho Vùng 1, 2 thay vì rút lui thì may ra còn có thể cứu vãn được tình thế.

Thấy ngon cơm, Bắc Việt vội đưa thêm mấy sư đoàn tổng trừ bị trừ bị vào Quân khu 3 tăng cường, tổng cộng lực lượng của chúng lên tới 20 sư đoàn. Trong khi Sài Gòn sắp chết tới nơi rồi mà Nguyễn văn Thiệu còn xin thêm 300 triệu tiền quân viện, theo Nguyễn Tiến Hưng tướng Thiệu còn tính lấy ngoại tệ trong ngân hàng để đi mua đạn, thật là diễu hết chỗ nói! Mỹ chỉ viện trợ tượng trưng mấy khẩu đại bác, họ cử người sang để tìm cách thu hồi máy bay, tầu thủy.

Chiến tranh Việt Nam đã coi như xong, Quốc Hội chỉ cấp ngân khoản di tản chứ không cho quân viện. Ngày 2/4 Thủ tướng Khiêm từ chức, Nguyễn bá Cẩn lên thay. Ngày 9/4 ba sư đoàn Bắc Việt tấn công Xuân Lộc, sư đoàn 18 anh dũng chiến đấu đẩy lui địch , ngày15/4 bắc Việt gửi thêm một sư đoàn đánh Xuân Lộc, tướng Toàn cho ném bom CBU khiến mấy trung đoàn Bắc Việt tử thương. Sư đoàn 18 thiệt hại 30% quân số phải rút lui ngày 20/4, địa phương quân nghĩa quân thiệt hại nặng, Việt Cộng chết 5,000 người, 37 xe tăng bị bắn cháy. Sau khi Long Khánh mất, Sài Gòn bị lung lay.

Quận đoàn 3 cho lập vòng đai bảo vệ Sài Gòn: Tuyến Củ chi ở Tây Bắc gồm sư đoàn 25 và liên đoàn 9 Biệt động quân; tuyến Bình Dương phía Bắc gồm sư đoàn 5; tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc gồm sư đoàn 18, lữ đoàn thuỷ quân lục chiến; Tuyến Vũng Tầu, quốc lộ 15 gồm Lữ đoàn dù, bộ binh thuộc sư đoàn 3 di tản; tuyến Long An, phía Nam có sư đoàn 22 di tản và 3 liên đoàn biệt động quân. Ngày 21/4 Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Trần văn Hương lên thay. Khi ấy Lực lượng hai bên Nam Bắc quân như sau.

Bắc Việt 20 sư đoàn, 280 ngàn quân, 400 xe tăng, 420 khầu pháo.

Việt Nam Cộng Hoà. 6 sư đoàn, quân số kể cả địa phương 240 ngàn, 625 xe tăng, 400 khẩu pháo.

Lực lượng hai bên cân bằng về xe tăng, pháo binh nhưng về nhân lực và đạn dươc thì Bắc Việt dồi dào hơn nhiều.

Vòng đai bảo vệ thủ đô nơi diễn ra những trận đánh long trời lở đất giữa các sư đoàn Nam Bắc ngày một thu hẹp lại, binh sĩ vẫn ngã gục khắp nơi khắp nơi để bảo vệ Thủ Đô cho thượng cấp của họ ra đi. Ngày 24/4 hai ông Thiệu, Khiêm lên máy bay rời Việt Nam. Ngày 26/4 Bắc Việt đánh trường thiết giáp Long Thành, căn cứ Nước trong, ngày 27/4 địch tấn công Bà Rịa. . Chiều ngày 28/4 ông Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng thống cho tướng Dương Văn Minh.

Đài BBC nói tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh đã được cử giữ chức vụ quyền Tổng Thống để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng. Ba Ngày sau, 30/4 năm 1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trong khi quân khu Bốn vẫn còn nguyên vẹn. Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Genève, Hiệp Định Paris, vi phạm công pháp quốc tế. . trước mắt bà con cô bác trên thế giới, nhưng chẳng có ai thừa hơi lên tiếng bênh vực cho chúng mình.

. . . Thế rồi thời gian trôi nhanh như nước chảy qua cầu. . Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn. . . đến nay đã mấy chục năm qua. .

Mới đây cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Melvin R. Laird dưới thời Nixon lên tiếng kết án Hoa Kỳ phản bội đồng minh năm 1975, ông ta nói rằng đó là một điều xấu hổ, Tổng Thống Ford, bộ trưởng quốc phòng Shlesinger và bộ trưởng ngoại giao Kissinger cũng phải chia sẻ nỗi nhục này. Ông cho rằng Quốc Hội Hoa Kỳ là thủ phạm chính trong việc bỏ rơi đồng minh qua những quyết định:

1-Chấm dứt can thiệp quân sự ( 8/73);

2- cấm can thiệp trở lại Việt nam;

3- cấm trả đũa nếu Hiệp định Paris bị vi phạm;

4 - Giảm quân viện từ 1 tỷ 4 xuống 700 triệu vào năm 1974;

5 -Từ chối yêu cầu của Tổng thống Ford xin viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam đầu tháng 4/75.

Laird cho rằng Tổng thống Ford đã bác bỏ thuyết Domino có từ 7/4/1954 dưới thời Eisenhower, thuyết Domino nay đã lỗi thời. Nói trắng ra nếu có bỏ rơi Việt Nam thì Đông Nam Á vẫn tồn tại nguyên si vì nay hiểm hoạ Cộng sản không còn, Hoa Kỳ vẫn bình chân như vại, họ sẽ không bao giờ còn phải lo sợ bị bao bọc bởi biển đỏ mênh mông, không bao giờ còn phải lo xây đắp một Vạn Lý Trường Thành thứ hai để chống ngoại xâm. Sẽ không bao giờ có một Vạn Lý Trường Thành thứ hai, có chăng chỉ là bức cổ thành khổng lồ vạn dặm đã được xây dựng dưới thời nhà Tần từ hai ngàn hai trăm năm trước.

Hoa kỳ đã chiêu hồi được Trung Quốc, điều mà họ mơ ước từ bấy lâu nay đã thành sự thật, cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao xếnh xáng ngày 21/2/1972 đã thay đổi cả một kỷ nguyên. Núi xương sông máu của hằng triệu binh lính cả hai miền Nam Bắc Việt Nam đã được họ đem ra làm món hàng đổi chác.

Vô tình Việt nam Cộng Hoà lại đi đúng và vết xe đổ của Trung Hoa Dân Quốc 40 năm trước đó. Trong những năm chống Nhật từ 1940-1945, Hoa Kỳ viện trợ thả dàn cho Tưởng để ngăn chận sự bành trướng của đế quốc Nhật. Năm 1945 quân Nhật đầu hàng, khi ấy Mao còn yếu lắm, mới chỉ kiểm soát được 1/4 đất đai và 1/3 dân số.

Tưởng định xơi tái Mao, Mao la làng và nhờ Liên Sô can thiệp với Anh Mỹ ép Tưởng phải ký đàm phán hoà bình với Mao vì lý do nhân đạo (đạo đức giả!): nhân dân đã đau khổ nhiều vì chiến tranh Hoa Nhật!!! thế là Tưởng phải cắn răng mà ký. Trong bốn năm 1945-1948 , Mao tha hồ mà luyện tập binh mã, được Nga tuồn cho cả một kho vũ khí khổng lồ của Nhật và rồi Mao khoẻ như vâm, thế là Mao tung hằng triệu quân đánh biển người tràn vào Hoa Bắc như nước vỡ bờ. Tưởng cử Tống Mỹ Linh sang Huê Kỳ xin viện trợ đầu tháng 12/1948 nhưng người bạn đồng minh ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ rơi Tưởng không thương không tiếc vì nay đế quốc Nhật đã tan tành thành tro bụi, Tưởng không còn là đồng minh cần thiết nữa.

Trong suốt cuộc chiến tranh họ chi tiêu 300 tỉ đô la, năm 1975 chỉ cần họ cho miền Nam thêm một, hai tỉ là có thể chuyển bại thành thắng nhưng họ lại không cho. Khi có chuyện cần dù phải xài hai, ba trăm bạc người ta cũng không tiếc, nhưng khi đã không cần nữa thì dù một đồng người ta cũng chẳng chịu bỏ ra.

Có người nói tại nó muốn bỏ Việt Nam chứ nếu không nó lấy bom CBU mà quẳng thì Việt Cộng chết hết chứ sống sao được" Hồi ấy Sài Gòn có nhiều tin đồn là động trời. Chiều ngày 21/4/1975 chúng tôi có nói chuyện với một người bạn làm trưởng khối hạ viện, anh ta nói "Chiều nay tôi sẽ vào dinh Độc lập dự lễ từ chức của ông Thiệu. Mặt trận cuối cùng sẽ là mặt trận Biên Hoà, nó sẽ mất 10 sư đoàn, mình đã chuẩn bị sẵn bom CBU cả rồi, miền Nam sẽ trung lập, không phải đi đâu cả" . Anh ấy cho biết tin này do một ông tướng nói lại. Sau 30/4/1975 Việt Cộng trưng bầy vũ khí, tội ác Mỹ Ngụy trong đó có cả bom CBU, họ có đem CBU sang thật nhưng hoặc là để thí nghiệm vũ khí, hoặc là để ngăn chận bớt đà tiến quân của Bắc Việt ngõ hầu có đủ thời giờ di tản, họ lo việc của họ chứ không phải để cứu chúng ta.

Từ sau 1975 đến nay nhiều người vẫn cứ tiếc mãi, họ nói rằng nếu đừng rút lui tại Quân khu 1 và 2, cứ đánh thì chưa chắc mèo nào đã cắn mỉu nào. Nhưng nếu ta nhìn lại 60 năm trước đây thì còn có những cái đáng tiếc gấp trăm ngàn lần như thế. Hồi ấy nghe tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, Việt Minh thừa cơ nhẩy ra cướp chính quyền. Đại sứ Nhật tại Việt Nam được lệnh của Tokyo phải giữ ngôi cho Hoàng Đế Bảo Đại, ông xin yết kiến nhà vua và thủ tướng Trần Trọng Kim, ông nói mặc dù quân Nhật đã đầu hàng Đồng Minh nhưng chúng tôi vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự tại đây để chờ quân đội Đồng Minh đến giải giới. Viên Đại sứ xin nhà vua và thủ tướng cho phép dẹp loạn để giữ ngôi Thiên tử nhưng cả nhà vua lẫn thủ tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ vì sợ trách nhiệm với Đồng Minh sau này.

Tại Hà Nội, phó lãnh sự Nhật đã đến Phủ Khâm sai gặp bác sĩ Nguyễn xuân Chữ, chủ tịch Uỷ ban giám đốc chính trị miền Bắc, ông ta nói "chúng tôi sẵn sàng đặt dưới quyền điều động của các ngài"nhưng bác sĩ cũng từ chối thiện chí của họ.

Nếu hồi đó vua quan không đến nỗi quá ư nhu nhược như thế, nếu người Nhật đã được ủy quyền dẹp loạn tái lập an ninh trật tự thì cái gọi là Tổng Bộ Việt Minh đã bị nghiền nát như tương như cám và đất nước đâu đến nỗi phải bị dầy vó xâu xé vì chiến tranh cách mạng mấy chục năm đằng đằng, đâu đến nỗi phải gánh chịu cả một lịch sử tang thương đau khổ di hại đến muôn đời như thế. Nhìn lại qua khứ chúng ta không khỏi trạnh lòng xót thương cho cả một dân tộc bất hạnh trước sự sai lầm của lịch sử.

TRỌNG ĐẠT

Tài liệu tham khảo:

Navarre: L'Agonie de l'Indochine.

Trần Trọng Kim: Một Cơn Gió Bụi.

Cao Thế Dung: Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa (1945-1963)

Đoàn Thêm: Những Ngày Chưa Quên, quyển thượng 1939-1954; Những Ngày

Chưa Quên, quyển hạ 1954-1963; 1965 Việc Từng Ngày; 1966

Việc Từng Ngày; 1969 Việc Từng Ngày.

Hoàng Văn Chí: Từ Thực Dân Đến Cộng sản.

Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam 1963-1975.

Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975.

Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Nam Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề

Nhắc Tới.

Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân

Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn.

Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975.

The World Almanac Of The Vietnam War, John S.Bowman, General Editor.

Stanley Karnow : Viet Nam, a History.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.