Ba tháng trước, trong số báo đề ngày 6 tháng 6 năm 2002, Sàigòn Times đã đăng Bản Tin Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu về việc CSVN ngăn cấm không cho ông Bùi Đức Tín về VN chôn cất thân phụ khi thân phụ ông qua đời. Ngoài ra, cũng trong số báo đó, Sàigòn Times đã đăng bức thư của ông Bùi Đức Tín nhan đề: “Thư Tố Cáo CSVN Ngăn Cấm Con Từ Úc Về VN Chôn Cất Cha Già 98 Tuổi”.
Trong Thư Tố Cáo, ông Bùi Đức Tín cho biết, khi được tin thân phụ 98 tuổi vừa tạ thế hồi 19 giờ 45 phút tối tại tư gia ở Hà Nội vào ngày 20-5-02, ông bà Bùi Đức Tín vội vã ra Công ty du lịch để lo thủ tục mua vé về VN. Tới ngày 22-5-02, ông bà Tín nhận được Hộ Chiếu do toà Đại Sứ của CSVN cấp, và ngay trong đêm đó, hai vợ chồng ông vội vã ra Phi Trường bay về Việt Nam qua ngả Hong Kong. Khi đến phi trường Việt Nam, trong khi làm thủ tục nhập cảnh, cán bộ hải quan CS coi trên computer và ngạc nhiên cho ông Tín biết, ông có trong danh sách “cấm nhập cảnh Việt Nam”. Sau đó, một đoàn cảnh sát vũ trang đầy mình đến gặp ông Tín và ra lệnh cho ông phải lên ngay máy bay quay trở lại HK. Ông Tín có hỏi vì lý do gì ông không được nhập cảnh Việt Nam thì công an CS chỉ trả vắn tắt: "Chúng tôi chỉ theo lệnh cấp trên." Ông Tín có cho cán bộ CS biết: "Trước khi về chúng tôi đã có sự chấp thuận cuả Đại Sứ Quán CS đồng thời chúng tôi chưa làm bất cứ điều gì trái với pháp luật cuả các ông"... Tuy nhiên, đám công an CS vũ trang nhất mực yêu cầu ông Tín lên máy bay rời khỏi Việt Nam ngay.
Phẫn nộ trước sự đối xử phi lý của CSViệt Nam, sau khi trở lại Úc, ông Tín đã một mặt liên lạc với Ban Chấp Hành Cộng Đồng NVTD Úc Châu trình bầy vấn đề, một mặt ông cũng viết thư gửi cho báo chí, trong đó có Sàigòn Times. Ngoài ra, ông Tín cũng đã viết một lá thư dài 4 trang gửi cho tòa đại sứ CSViệt Nam tại Canberra trình bầy đầu đuôi mọi chuyện. Trong lá thư đề ngày 31/5/02 gửi cho tòa đại sứ CSViệt Nam, ông Tín cũng đã ghi rõ 2 yêu cầu. Một, tòa đại sứ CSViệt Nam phải chính thức có công văn xin lỗi vì đã có hành động lường gạt ông. Hai, tòa đại sứ CS và hãng hàng không Việt Nam phải trực tiếp bồi hoàn vé máy bay cho ông. Cuối thư, ông Tín cũng đã viết, nếu trong 15 ngày sau khi gửi thư, tòa đại sứ CS không chịu hồi đáp, ông sẽ yêu cầu “Cơ Quan Bảo Vệt Người Tiêu dùng của Úc can thiệp” và tố cáo trước công luận sự bịp bợm của CS.
Sau một thời gian không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào từ phía tòa đại sứ CS, ông Tín đã đến văn phòng luật sư Nguyen & Tran, tại Footscray, Melbourne, nhờ giúp đỡ. Kết quả, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã viết một lá thư tiếng Anh đề ngày 17 tháng 6, gửi cho Vũ Chí Công, đại sứ CSViệt Nam tại Canberra. Trong thư, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã trình bầy tóm tắt những sự kiện quan trọng, đồng thời đính kèm lá thư đề ngày 31/5, viết bằng tiếng Việt gửi tòa đại sứ CS của ông Tín. Trong thư, luật sư Thăng cũng đưa ra 3 yêu cầu: Một, yêu cầu tòa đại sứ CS giải thích lý do vì sao nhà đương cục tại Việt Nam lại đối xử với thân chủ [Bùi Đức Tín] của ông một cách không hợp tình hợp lý như vậy; Hai, yêu cầu chính phủ Việt Nam xin lỗi ông Tín; Ba, bồi thường tiền vé phi cơ cùng những thiệt hại liên hệ. Cuối thư, luật sư Thăng cũng lịch sự hy vọng, sẽ nhận được phúc đáp của đại sứ CS trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày ghi trong thư.
Sau thời hạn 14 ngày không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào của đại sứ CS, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã gửi cho đại sứ cộng sản lá thư thứ 2 đề ngày 2 tháng 7 năm 2002. Lần này, luật sư Thăng ghi rõ người nhận là Vũ Chí Công, đại sứ CSViệt Nam tại Canberra. Trong thư, luật sư Thăng nhã nhặn nhắc nhở đại sứ CS Vũ Chí Công về lá thư ông đã gửi trước đó 2 tuần, việc tòa đại sứ không chịu phúc đáp, đồng thời luật sư Thăng nhấn mạnh, nếu trong thời hạn 7 ngày, đại sứ Vũ Chí Công không có bất cứ sự phúc đáp nào, bắt buộc, luật sư Thăng phải yêu cầu ngoại trưởng Úc là ông Downer giúp đỡ và điều tra.
Mặc dù đã nhận được trước sau 3 lá thư, 1 của ông Tín, và 2 của luật sư Thăng, đại sứ CS Vũ Chí Công vẫn im lặng. Trước thái độ ù lì, thiếu văn minh của ông đại sứ CS, luật sư Thăng không còn cách nào khác, đành phải viết thư cho ngoại trưởng Úc. Ngay sau đó, văn phòng của ngoại trưởng Úc Downer đã gửi thư cho luật sư Thăng. Trong lá thư đề ngày 5 tháng 8, 2002, Keith Gardner, đại diện cho ngoại trưởng Downer, đã lịch sự chia buồn cùng ông Tín, và lấy làm tiếc trước việc ông Tín không được tham dự đám tang của thân phụ. Tuy nhiên, bộ ngoại giao Úc cho rằng việc nhập cảnh Việt Nam hoàn toàn thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam.
Trong Thư Tố Cáo, ông Bùi Đức Tín cho biết, khi được tin thân phụ 98 tuổi vừa tạ thế hồi 19 giờ 45 phút tối tại tư gia ở Hà Nội vào ngày 20-5-02, ông bà Bùi Đức Tín vội vã ra Công ty du lịch để lo thủ tục mua vé về VN. Tới ngày 22-5-02, ông bà Tín nhận được Hộ Chiếu do toà Đại Sứ của CSVN cấp, và ngay trong đêm đó, hai vợ chồng ông vội vã ra Phi Trường bay về Việt Nam qua ngả Hong Kong. Khi đến phi trường Việt Nam, trong khi làm thủ tục nhập cảnh, cán bộ hải quan CS coi trên computer và ngạc nhiên cho ông Tín biết, ông có trong danh sách “cấm nhập cảnh Việt Nam”. Sau đó, một đoàn cảnh sát vũ trang đầy mình đến gặp ông Tín và ra lệnh cho ông phải lên ngay máy bay quay trở lại HK. Ông Tín có hỏi vì lý do gì ông không được nhập cảnh Việt Nam thì công an CS chỉ trả vắn tắt: "Chúng tôi chỉ theo lệnh cấp trên." Ông Tín có cho cán bộ CS biết: "Trước khi về chúng tôi đã có sự chấp thuận cuả Đại Sứ Quán CS đồng thời chúng tôi chưa làm bất cứ điều gì trái với pháp luật cuả các ông"... Tuy nhiên, đám công an CS vũ trang nhất mực yêu cầu ông Tín lên máy bay rời khỏi Việt Nam ngay.
Phẫn nộ trước sự đối xử phi lý của CSViệt Nam, sau khi trở lại Úc, ông Tín đã một mặt liên lạc với Ban Chấp Hành Cộng Đồng NVTD Úc Châu trình bầy vấn đề, một mặt ông cũng viết thư gửi cho báo chí, trong đó có Sàigòn Times. Ngoài ra, ông Tín cũng đã viết một lá thư dài 4 trang gửi cho tòa đại sứ CSViệt Nam tại Canberra trình bầy đầu đuôi mọi chuyện. Trong lá thư đề ngày 31/5/02 gửi cho tòa đại sứ CSViệt Nam, ông Tín cũng đã ghi rõ 2 yêu cầu. Một, tòa đại sứ CSViệt Nam phải chính thức có công văn xin lỗi vì đã có hành động lường gạt ông. Hai, tòa đại sứ CS và hãng hàng không Việt Nam phải trực tiếp bồi hoàn vé máy bay cho ông. Cuối thư, ông Tín cũng đã viết, nếu trong 15 ngày sau khi gửi thư, tòa đại sứ CS không chịu hồi đáp, ông sẽ yêu cầu “Cơ Quan Bảo Vệt Người Tiêu dùng của Úc can thiệp” và tố cáo trước công luận sự bịp bợm của CS.
Sau một thời gian không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào từ phía tòa đại sứ CS, ông Tín đã đến văn phòng luật sư Nguyen & Tran, tại Footscray, Melbourne, nhờ giúp đỡ. Kết quả, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã viết một lá thư tiếng Anh đề ngày 17 tháng 6, gửi cho Vũ Chí Công, đại sứ CSViệt Nam tại Canberra. Trong thư, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã trình bầy tóm tắt những sự kiện quan trọng, đồng thời đính kèm lá thư đề ngày 31/5, viết bằng tiếng Việt gửi tòa đại sứ CS của ông Tín. Trong thư, luật sư Thăng cũng đưa ra 3 yêu cầu: Một, yêu cầu tòa đại sứ CS giải thích lý do vì sao nhà đương cục tại Việt Nam lại đối xử với thân chủ [Bùi Đức Tín] của ông một cách không hợp tình hợp lý như vậy; Hai, yêu cầu chính phủ Việt Nam xin lỗi ông Tín; Ba, bồi thường tiền vé phi cơ cùng những thiệt hại liên hệ. Cuối thư, luật sư Thăng cũng lịch sự hy vọng, sẽ nhận được phúc đáp của đại sứ CS trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày ghi trong thư.
Sau thời hạn 14 ngày không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào của đại sứ CS, luật sư Nguyễn Mạnh Thăng đã gửi cho đại sứ cộng sản lá thư thứ 2 đề ngày 2 tháng 7 năm 2002. Lần này, luật sư Thăng ghi rõ người nhận là Vũ Chí Công, đại sứ CSViệt Nam tại Canberra. Trong thư, luật sư Thăng nhã nhặn nhắc nhở đại sứ CS Vũ Chí Công về lá thư ông đã gửi trước đó 2 tuần, việc tòa đại sứ không chịu phúc đáp, đồng thời luật sư Thăng nhấn mạnh, nếu trong thời hạn 7 ngày, đại sứ Vũ Chí Công không có bất cứ sự phúc đáp nào, bắt buộc, luật sư Thăng phải yêu cầu ngoại trưởng Úc là ông Downer giúp đỡ và điều tra.
Mặc dù đã nhận được trước sau 3 lá thư, 1 của ông Tín, và 2 của luật sư Thăng, đại sứ CS Vũ Chí Công vẫn im lặng. Trước thái độ ù lì, thiếu văn minh của ông đại sứ CS, luật sư Thăng không còn cách nào khác, đành phải viết thư cho ngoại trưởng Úc. Ngay sau đó, văn phòng của ngoại trưởng Úc Downer đã gửi thư cho luật sư Thăng. Trong lá thư đề ngày 5 tháng 8, 2002, Keith Gardner, đại diện cho ngoại trưởng Downer, đã lịch sự chia buồn cùng ông Tín, và lấy làm tiếc trước việc ông Tín không được tham dự đám tang của thân phụ. Tuy nhiên, bộ ngoại giao Úc cho rằng việc nhập cảnh Việt Nam hoàn toàn thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam.
Gửi ý kiến của bạn