Tin AP đánh đi từ Hà nội, ngày 20 tháng 9, năm 2002, cho biết tài tử Đơn Dương đã bị Uûy Ban Nhân dân TP Sài Gòn và Sở Thông Tin Văn Hoá cấm hành nghề và đi nước ngoài trong vòng 5 năm. Chỉ vì cái tội Anh Đơn Dương "dám" đóng phim "Chúng Tôi Là Lính" chung với tài tử gạo cội Mel Gibson.
Phim đã ra mắt giới mộ điệu và trình chiếu cho công chúng, được đánh giá là một trong những phim xuất sắc về Chiến Tranh VN về mặt nghệ thuật, tư tưởng, cũng như số tiền thu được khắp nơi trên thế giới. Sự thật thì phim cũng không đề cập đến một vấn đề gì nhậy cảm lớn lắm. Nó chỉ nói lên sư hy sinh đầy can đảm của những một thế hệ thanh niên Mỹ vì tiếng gọi Tổ quốc, chánh nghĩa Tự do mà chiến đấu, không cần biết mưu mô của những nhà chánh trị Mỹ ở hậu phương. Triết lý của phim trái ngược với các phim về bộ đội do CS Hà nội đã làm ra cho đến bây giờ: Lính Mỹ là kẻ bạo tàn giết người không gớm tay, còn "chiến sĩ" của CS thì "trung với nuớc hiếu với dân" trong cuộc chiến "thần thánh". CS Hà nội cũng tức khi Phim đưa ra bao nỗi khổ của gia đình quân nhân của cả hai bên, mẹ trông con, vợ mong chồng, lo buồn, chờ đợi ở hậu phương.
Anh Đơn Dương được mời đóng vai Thiếu Tá Bộ Đội Nguyễn Hữu An, người đã lãnh đạo, chỉ huy đơn vị bộ đội. Anh là một trong những tài tử điện ảnh xuất sắc thường xuất hiện trong các phim về chiến tranh do Đảng và Nhà Nước cho thực hiện. Anh cũng được nhà đạo diễn Mỹ gốc Việt Tony Linh Bùi mời đóng phim "Rồng Xanh" trong vai trò một người tỵ nạn CS bằng thuyền tình nguyện làm thông dịch viên cho những đồng cảnh đi tìm đất lành và lẽ sống mới ở Mỹ. Thế mà nhà cầm quyền Thành phố của Anh kết hợp với ngành Văn Hoá thông tin và Quân Đội CS Hà nội phết cho Anh bản án nặng nề, "tuyên truyền và làm tay sai cho lực lượng thù địch bằng cách làm hoen ố chiến sĩ và nhân dân, Đơn Dương đã bán rẻ lương tâm và trở thành kẻ phản quốc."
Bản án của CS Hà nỗi dành cho Anh Đơn Dương là cái giá phải trả của một văn công muốn trở thành một nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ không được chấp nhận trong chế độ CS, mà chỉ có văn công phục vụ tuyên truyền cho Đảng. Văn học, nghệ thuật không phục vụ đường lối chính sách Đảng là "ngụy, là thù địch" phải diệt.
Bản án CS dành cho Đơn Dương là một bản án điển hình của một chuổi những biện pháp CS gọi là "trình diễn vô tổ chức" của các tài tử, nghệ sĩ khi đi ngoại quốc. Trước vụ Đơn Dương một chút, CS Hà nội ra lịnh tuyệt đối cấm tất cả mọi "tự biên tự diễn" kiếm chút cháo của các nghệ sĩ trong nước trên đường đi du lịch, thăm bà con thân nhân ở hải ngoại. Lịnh này của CS đáng để người Việt hải ngoại chú ý hầu chống giao lưu văn hoá một chiều của CS, chống làm sao cho cho sát tình hình thực tế, được việc mà không mất lòng, đùa đẩy những nghệ sĩ tự biên tự diễn kiếm chút cháo khi đi thăm bà con.
Thư nhứt, chống văn công đi công tác "tập thể hay cá thể" để tuyên truyền cho CS Hà nội là dĩ nhiên. Nhưng chống văn nghệ sĩ thời VNCH hay mới lớn lên đi du lịch thăm thân nhân hay về nước, tự biên tự diễn, kiếm chút tiền túi là vô tình giúp thực hiện lịnh cấm dùm cho CS Hà nội và gây mất cảm tình vô ích đối với nghệ sĩ trong nước. Trái lại có lẽ tốt cho cuộc đấu tranh hơn nếu " tạo điều kiện giúp đỡ" cho cá nhân những nghệ sĩ ấy sau khi " khều nhẹ, nói nhỏ" nên trình diễn những bài ít đụng chạm với người tỵ nạn đã "bao năm đau khổ vô cùng vì CS." Trừ nghệ sĩ đi trong đoàn văn công có đảng viên, bảo vệ chánh trị theo kềm kẹp, các nghệ sĩ đi du lịch dù CS có "trao đổi" việc cho đi ngoại quốc với công tác tuyên truyền đen hay xám cho CS đi nữa, cũng ít ai dám gồng mình xuất hiện trước khán thính giả tỵ nạn CS mà hát bài "Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân." Điều này mấy ông bầu văn nghệ ở hải ngoại thừa kiến thức, kinh nghiệm, uy tín để khều nhe, nói nhỏ với nghệ sĩ để có lợi cho chánh nghĩa đấu tranh của người tỵ nạn CS.
Thứ hai, đòn địch vận tuyệt vời của Hollywood cần rút kinh nghiệm trong đấu tranh. Phải nói hai nhà đạo diễn phim Chúng Tôi là Lính và Rồng Xanh, nếu còn Tổng Cục Chiến tranh Chánh Trị của QLVNCH, nhứt định hai người này sẽ nhận được bằng tưởng lục và huy chương cao hơn giám đốc Đài Gươm Thiêng Aùi Quốc và Mẹ VN. Vì hai đạo diễn một Mỹ già, một Việt trẻ đã làm công tác địch vận một cách tuyệt vời đến nổi CS chỉ biết sau khi đã vỡ lỡ ra. Điều đó giải thích tại sao FBI và CIA phải hạ cố đến Hollywood học cách chống khủng bố từ những nhà đạo diễn các phim về khủng bố. Ra lịnh cấm nghệ sĩ cộng tác với hãng phim ngoại quốc hay "biểu diễn tài tử" là CS tự vạch áo cho thế giới xem lưng đỏ lòm độc tài toàn trị và gây ác cảm với văn nghệ sĩ thế giới.
Thứ ba, đấu tranh với chánh quyền Mỹ phải công bằng trong giao lưu văn hoá với CS Hà nội. Công bình, công chính, fairness đạo ở đời của người Mỹ, truyền thống văn hóa Mỹ, tinh lý pháp luật Mỹ, được dạy từ nhỏ ở nhà, trường và xã hội Mỹ. Không lý do gì Mỹ cho sách báo, băng đỉa từ VNCS nhập vào tràn ngập thị trường Mỹ. Mà sách báo, bằng đỉa Mỹ, CS Hà nội không cho phép vào VNCS. Văn hoá phẩm của người Mỹ gốc Việt vẫn là văn hoá phẩm của Mỹ về thực tại cũng như pháp lý. Người Việt là công dân Mỹ. Tiếng Việt được Mỹ thừa nhận là sinh ngữ của cộng đồng sắc tộc Việt trong xã hội Mỹ. Bản quyền được thừa nhận và lưu ký tại Quốc Hội Mỹ. Quốc Hội, Bô Ngoại Giao và Cơ quan Văn Hoá Mỹ không tranh đấu với CS Hà nội để văn hoá phẩm tiếng Việt của người Mỹ gốc Việt được phổ biến tại VNCS, trước nhất là thua trí CS Hà nội, kế đến là bất công và kỳ thị sắc tộc đối với người Mỹ gốc Việt. Đó là một đề tài tranh đấu rất có lý có tình, nhứt định sẽ được nhân dân và chánh quyền Mỹ yễm trợ. Còn oán trách, chống đối người kinh doanh sach báo VC ở Mỹ kể cũng tội nghiệp. Lợi lộc là cứu cánh của kinh doanh. Chính những nhà kinh doanh sách báo hải ngoại cũng đã vì lợi lộc hơn một lần, tuồn sách báo hải ngoại về VN làm CS Hà nội đỗ mồ hôi tịch thu mà không kết quả.
Phim đã ra mắt giới mộ điệu và trình chiếu cho công chúng, được đánh giá là một trong những phim xuất sắc về Chiến Tranh VN về mặt nghệ thuật, tư tưởng, cũng như số tiền thu được khắp nơi trên thế giới. Sự thật thì phim cũng không đề cập đến một vấn đề gì nhậy cảm lớn lắm. Nó chỉ nói lên sư hy sinh đầy can đảm của những một thế hệ thanh niên Mỹ vì tiếng gọi Tổ quốc, chánh nghĩa Tự do mà chiến đấu, không cần biết mưu mô của những nhà chánh trị Mỹ ở hậu phương. Triết lý của phim trái ngược với các phim về bộ đội do CS Hà nội đã làm ra cho đến bây giờ: Lính Mỹ là kẻ bạo tàn giết người không gớm tay, còn "chiến sĩ" của CS thì "trung với nuớc hiếu với dân" trong cuộc chiến "thần thánh". CS Hà nội cũng tức khi Phim đưa ra bao nỗi khổ của gia đình quân nhân của cả hai bên, mẹ trông con, vợ mong chồng, lo buồn, chờ đợi ở hậu phương.
Anh Đơn Dương được mời đóng vai Thiếu Tá Bộ Đội Nguyễn Hữu An, người đã lãnh đạo, chỉ huy đơn vị bộ đội. Anh là một trong những tài tử điện ảnh xuất sắc thường xuất hiện trong các phim về chiến tranh do Đảng và Nhà Nước cho thực hiện. Anh cũng được nhà đạo diễn Mỹ gốc Việt Tony Linh Bùi mời đóng phim "Rồng Xanh" trong vai trò một người tỵ nạn CS bằng thuyền tình nguyện làm thông dịch viên cho những đồng cảnh đi tìm đất lành và lẽ sống mới ở Mỹ. Thế mà nhà cầm quyền Thành phố của Anh kết hợp với ngành Văn Hoá thông tin và Quân Đội CS Hà nội phết cho Anh bản án nặng nề, "tuyên truyền và làm tay sai cho lực lượng thù địch bằng cách làm hoen ố chiến sĩ và nhân dân, Đơn Dương đã bán rẻ lương tâm và trở thành kẻ phản quốc."
Bản án của CS Hà nỗi dành cho Anh Đơn Dương là cái giá phải trả của một văn công muốn trở thành một nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ không được chấp nhận trong chế độ CS, mà chỉ có văn công phục vụ tuyên truyền cho Đảng. Văn học, nghệ thuật không phục vụ đường lối chính sách Đảng là "ngụy, là thù địch" phải diệt.
Bản án CS dành cho Đơn Dương là một bản án điển hình của một chuổi những biện pháp CS gọi là "trình diễn vô tổ chức" của các tài tử, nghệ sĩ khi đi ngoại quốc. Trước vụ Đơn Dương một chút, CS Hà nội ra lịnh tuyệt đối cấm tất cả mọi "tự biên tự diễn" kiếm chút cháo của các nghệ sĩ trong nước trên đường đi du lịch, thăm bà con thân nhân ở hải ngoại. Lịnh này của CS đáng để người Việt hải ngoại chú ý hầu chống giao lưu văn hoá một chiều của CS, chống làm sao cho cho sát tình hình thực tế, được việc mà không mất lòng, đùa đẩy những nghệ sĩ tự biên tự diễn kiếm chút cháo khi đi thăm bà con.
Thư nhứt, chống văn công đi công tác "tập thể hay cá thể" để tuyên truyền cho CS Hà nội là dĩ nhiên. Nhưng chống văn nghệ sĩ thời VNCH hay mới lớn lên đi du lịch thăm thân nhân hay về nước, tự biên tự diễn, kiếm chút tiền túi là vô tình giúp thực hiện lịnh cấm dùm cho CS Hà nội và gây mất cảm tình vô ích đối với nghệ sĩ trong nước. Trái lại có lẽ tốt cho cuộc đấu tranh hơn nếu " tạo điều kiện giúp đỡ" cho cá nhân những nghệ sĩ ấy sau khi " khều nhẹ, nói nhỏ" nên trình diễn những bài ít đụng chạm với người tỵ nạn đã "bao năm đau khổ vô cùng vì CS." Trừ nghệ sĩ đi trong đoàn văn công có đảng viên, bảo vệ chánh trị theo kềm kẹp, các nghệ sĩ đi du lịch dù CS có "trao đổi" việc cho đi ngoại quốc với công tác tuyên truyền đen hay xám cho CS đi nữa, cũng ít ai dám gồng mình xuất hiện trước khán thính giả tỵ nạn CS mà hát bài "Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân." Điều này mấy ông bầu văn nghệ ở hải ngoại thừa kiến thức, kinh nghiệm, uy tín để khều nhe, nói nhỏ với nghệ sĩ để có lợi cho chánh nghĩa đấu tranh của người tỵ nạn CS.
Thứ hai, đòn địch vận tuyệt vời của Hollywood cần rút kinh nghiệm trong đấu tranh. Phải nói hai nhà đạo diễn phim Chúng Tôi là Lính và Rồng Xanh, nếu còn Tổng Cục Chiến tranh Chánh Trị của QLVNCH, nhứt định hai người này sẽ nhận được bằng tưởng lục và huy chương cao hơn giám đốc Đài Gươm Thiêng Aùi Quốc và Mẹ VN. Vì hai đạo diễn một Mỹ già, một Việt trẻ đã làm công tác địch vận một cách tuyệt vời đến nổi CS chỉ biết sau khi đã vỡ lỡ ra. Điều đó giải thích tại sao FBI và CIA phải hạ cố đến Hollywood học cách chống khủng bố từ những nhà đạo diễn các phim về khủng bố. Ra lịnh cấm nghệ sĩ cộng tác với hãng phim ngoại quốc hay "biểu diễn tài tử" là CS tự vạch áo cho thế giới xem lưng đỏ lòm độc tài toàn trị và gây ác cảm với văn nghệ sĩ thế giới.
Thứ ba, đấu tranh với chánh quyền Mỹ phải công bằng trong giao lưu văn hoá với CS Hà nội. Công bình, công chính, fairness đạo ở đời của người Mỹ, truyền thống văn hóa Mỹ, tinh lý pháp luật Mỹ, được dạy từ nhỏ ở nhà, trường và xã hội Mỹ. Không lý do gì Mỹ cho sách báo, băng đỉa từ VNCS nhập vào tràn ngập thị trường Mỹ. Mà sách báo, bằng đỉa Mỹ, CS Hà nội không cho phép vào VNCS. Văn hoá phẩm của người Mỹ gốc Việt vẫn là văn hoá phẩm của Mỹ về thực tại cũng như pháp lý. Người Việt là công dân Mỹ. Tiếng Việt được Mỹ thừa nhận là sinh ngữ của cộng đồng sắc tộc Việt trong xã hội Mỹ. Bản quyền được thừa nhận và lưu ký tại Quốc Hội Mỹ. Quốc Hội, Bô Ngoại Giao và Cơ quan Văn Hoá Mỹ không tranh đấu với CS Hà nội để văn hoá phẩm tiếng Việt của người Mỹ gốc Việt được phổ biến tại VNCS, trước nhất là thua trí CS Hà nội, kế đến là bất công và kỳ thị sắc tộc đối với người Mỹ gốc Việt. Đó là một đề tài tranh đấu rất có lý có tình, nhứt định sẽ được nhân dân và chánh quyền Mỹ yễm trợ. Còn oán trách, chống đối người kinh doanh sach báo VC ở Mỹ kể cũng tội nghiệp. Lợi lộc là cứu cánh của kinh doanh. Chính những nhà kinh doanh sách báo hải ngoại cũng đã vì lợi lộc hơn một lần, tuồn sách báo hải ngoại về VN làm CS Hà nội đỗ mồ hôi tịch thu mà không kết quả.
Gửi ý kiến của bạn