Hiệp Định Mậu Dịch Việt - Mỹ vừa ký kết đang mở ra triển vọng lớn cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường này, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức gay gắt: vừa phải cạnh tranh với hàng hoá các nước trên thị trường Mỹ, vừa phải cạnh tranh với hàng hoá của Mỹ sản xuất tại Việt Nam.
Hàng dệt may
Mỹ là một trong những thị trường nhập cảng hàng dệt may lớn nhất thế giới với mức nhập cảng mặt hàng này hơn $40 tỉ USD mỗi năm. Hàng dệt may của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường Mỹ nhưng mức độ còn rất nhỏ (năm 1999 đạt khoảng $70 triệu USD) do mức chênh lệch giữa thuế quan quá cao (từ 30 - 40%).
Thời gian đầu khi hiệp định có hiệu lực, mặt hàng này không bị giới hạn nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường. Theo nhiều chuyên gia, ngay trong một vài năm đầu tiên, nếu được chuẩn bị tốt, mức xuất cảng hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ có thể lên tới gần $1 tỉ USD mỗi năm. Nhưng sau đó, Mỹ sẽ áp dụng giới hạn đối với mặt hàng này. Do đó, dự trù vào năm 2005, chỉ có thể đạt mức tối đa là $1,5 tỉ USD.
Giày dép và các sản phẩm da
Mỗi năm, Mỹ nhập cảng khoảng hơn $14 tỉ USD giày dép các loại. Do tranh thủ xuất cảng được những sản phẩm có mức chênh lệch giữa thuế quan thấp, nên mức xuất cảng mặt hàng này của Việt Nam vào Mỹ đã tăng rất nhanh, từ $69.000 USD (năm 1994) lên $115 triệu USD (năm 1998) và Việt Nam đã thành nước đứng thứ 12 trong danh sách các nước xuất cảng giày dép vào Mỹ, trên cả Canada (là nước được hưởng thuế nhập cảng rất thấp theo NAFTA). Sau khi có hiệp định, với thuế quan thấp và do không bị áp dụng giới hạn, mức xuất cảng giày dép của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng trưởng mạnh với tốc độ tương đối bền vững.
Hàng gốm sứ
Mỹ là nước có nhu cầu rất lớn về đồ gốm, đồ sứ nhưng lại gần như không sản xuất nên những năm qua, trung bình Mỹ nhập cảng trên $3 tỉ USD mỗi năm mặt hàng này và dự tính nhu cầu sẽ tăng rất mạnh trong những năm tới. Sau khi có hiệp định, nếu các doanh nghiệp chuẩn bị tốt để cạnh tranh thì có thể đạt tới hàng trăm triệu USD mỗi năm.
Cà phê
Mỗi năm Mỹ nhập cảng trên dưới $3,5 tỉ USD cà phê và dự tính trong 10 năm tới nhu cầu nhập cảng cà phê của Mỹ tiếp tục tăng khoảng 10% mỗi năm. Việt Nam bắt đầu xuất cảng cà phê (hạt robusta) vào Mỹ từ năm 1994 và ngay trong năm đầu tiên đã đạt mức $32 triệu USD.
Hiện nay Việt Nam đang đứng vị trí thứ 7 trong số những nước xuất cảng cà phê vào Mỹ (khoảng $150 triệu USD mỗi năm). Mặt hàng cà phê không phụ thuộc vào hiệp định thương mại và thuế suất đều bằng 0%. Vì vậy triển vọng tăng mức xuất cảng cà phê trên thị trường Mỹ phụ thuộc vào sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam và phụ thuộc vào sự thành công của chương trình trồng cà phê hạt arabica của Việt Nam vì thị trường Mỹ chủ yếu tiêu thụ loại cà phê này.
Hải sản
Mỹ là nước nhập cảng hải sản lớn thứ hai trên thế giới (sau Nhật Bản) với mức độ gần $7 tỉ USD hằng năm. Mức xuất cảng mặt hàng này (chủ yếu là tôm, cua, cá đông lạnh, trong đó nhiều nhất là tôm) của Việt Nam vào Mỹ tăng lên rất nhanh - năm 1994: $6 triệu USD, 1997: $46,4 triệu USD, 1998: $82 triệu USD và năm 1999 đạt khoảng $130 triệu USD. Triển vọng gia tăng xuất cảng hải sản, nhất là tôm, vào thị trường Mỹ khá lớn, nếu vấn đề vệ sinh thực phẩm được quan tâm chu đáo.
Thực phẩm chế biến
Mỹ là nước nhập cảng nhiều thực phẩm chế biến (gần $2 tỉ USD mỗi năm).
Loại thực phẩm chế biến chủ yếu của Việt Nam xuất cảng sang Mỹ hiện nay là tôm chế biến (chiếm khoảng 3% mức nhập cảng tôm chế biến của Mỹ). Sau khi ký hiệp định, các chuyên gia dự đoán triển vọng xuất cảng thực phẩm chế biến nói chung và tôm chế biến nói riêng của Việt Nam vào Mỹ tăng ở mức trên 30% mỗi năm và tới năm 2005 Việt Nam có thể trở thành nước thứ hai (sau Thái Lan) trong số các nước xuất cảng thực phẩm chế biến vào Mỹ.
Ngoài ra, đối với một số mặt hàng khác như rau tươi, quả và hạt ăn được, hạt tiêu, chè, quế, gia vị, sản phẩm làm từ ngũ cốc..., Việt Nam cũng có khả năng tăng mạnh mức xuất cảng sang Mỹ sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực.