Hôm nay,  

Toàn Cầu Hóa Nguy Lớn: Kinh Tế Suy, Các Nước Lo Bảo Hộ

09/03/200300:00:00(Xem: 3638)

Cảnh tượng toàn cầu hoá đang chuyển dần sang đen tối vì kinh tế toàn cầu hồi phục bất trắc và mong manh . Kinh tế suy thoái đã cho ngay ra cái chủ trương bảo hộ công nghiệp.
Hơn nữa việc kinh tế xoay vòng đang có khó khăn nhiều hơn vì các cường quốc lớn đang chia rẽ nhau trong vấn đề Iraq. Vấn đề Iraq là sự kết hợp những tranh chấp thương mại giữa Tây Âu với Hoa kỳ, nó có thể đem lại nguy cơ của một cuộc chiến mậu dịch.
Đa số các doanh gia tại Âu châu và Hoa kỳ đã phải quan tâm tới những căng thẳng nằm trong khối Liên Minh Đại Tây Dương (NATO).
Kinh tế công nghiệp bị đình trệ, người ta không có thể giải thích vì chiến tranh sắp xẩy ra tại Iraq hay vì biến cố của 11/9 như phần đông các nhà kinh tế đang ghi nhận. Vấn đề kinh tế đình trệ là một khủng hoảng tuân theo chu kỳ hạn dài của riêng nó, nếu như người ta quan sát nó bằng thống kê.
Tại Hoa kỳ, người ta thấy kinh tế đình trệ có sâu đậm hơn: Sự đình trệ nguyên do là việc vượt giới hạn riêng của Hoa kỳ trong những năm phồng lên như những chiếc bong bóng, các công ty tập đoàn cho thống soái giới tiêu thụ để cho mua chịu hàng hóa sản xuất dư thừa, tỷ xuất tiết kiệm của giới tiêu thụ lại chẳng thấm tháp vào đâu đối với cả loạt chương mục ngân hàng của các công ty tập đoàn đã bị thâm thủng.
Sự thống soái của các công ty đã dựa trên tâm lý của giới tiêu thụ. Tâm lý này là giới tiêu thụ khi đi mua sắm thường có ao ước nhiều hơn những gì mà họ đã định truớc khi đi, nếu thuận tiện về tiền bạc hoặc mua trước trả sau và hợp với sở thích họ sẽ cho thỏa mãn những ao ước này ngay.
Thực tại chính trị này là quyền hạn đơn cực của Hoa kỳ đang đụng với cái chủ trương đa cực của Tây Âu do Pháp và Đức dẫn đầu. Pháp và Đức, cả hai quốc gia Tây Âu đang tạo ra một nét toàn cầu hóa riêng biệt lấy Tây Âu làm trụ và gạt ảnh hưởng đồng Mỹ kim sang bên lề.
Sư chia rẽ giữa các cường quốc lớn đã phát sinh ra những quốc gia không liên kết, tạo ra một sinh thái dễ thở hơn. Sự chia rẽ này cũng củng cố cho chủ trương một thế giới đa cực và kích động sự hợp tác giữa các quốc gia Nam Bán Cầu với nhau.
Nhận thấy tình thế chính trị của thế giới thay đổi, chủ tịch Fidel Castro của Cuba đã làm chuyến công du mậu dịch tới các quốc gia tại Á châu mới đây.
Sau 11 ngày công du như muốn hội nhập vào kinh tế thế giới, chiếc máy bay của Castro với phái đoàn đại diện 157 người đã ghé vội phi cảng Delta của Vancouver tại Canada. Lợi dụng dịp ghé vội này để cho máy bay lấy xăng, Castro đã nhắn nhủ với giới truyền thông là Canada phải coi chừng những con cá hồi (salmon) và săn sóc các thành phố (Cities) của mình.
Cá hồi là loài cá sống nơi nước mặn, nhưng khi đẻ thì chúng lần mò về những vùng nước ngọt.
Bản tường trình của Ngân hàng Thế giới về Triển vọng Kinh tế Toàn cầu năm 2003 cho thấy, việc hồi phục kinh tế toàn cầu mong manh, vì số tiền chi vào đầu tư không đủ để làm cho nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng
Đã từ nhiều năm rồi, cả hai mức về đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và về trợ giúp chính thức có tính cách song phương để kích thích việc toàn cầu hóa, hai mức này đã đi xuống.
Để đối đầu với nền kinh tế đang bị khủng hoảng , các quốc gia sớm phát triển đã khước từ để cho các quốc gia đang phát triển bước vào trong các thị trường của những quốc gia sớm phát triển này.
Nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2000 là 1,5 ngàn tỷ (trillion) Mỹ kim, nguồn đầu tư này đã sụt hẳn xuống 725 tỷ Mỹ kim theo như phỏng tính trong năm 2001. Hầu hết nguồn đầu tư trực tiếp loại này đều được dành riêng cho các quốc gia ổn định vốn giầu tài nguyên và nhân lực, chẳng hạn như Trung quốc.
Theo các con số của Ngân hàng Thế giới đưa ra, nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào các quốc gia đang phát triển năm 2000 và 2001 vào khoảng 167 tỷ Mỹ kim, trái lại nguồn đầu tư của nội địa, tính tất cả nhân lực và vật lực của những quốc gia đang phát triển trị giá gần cả một ngàn tỷ Mỹ kim.
Sự đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào các quốc gia đang phát triển phỏng tính cho năm 2002 là 145 triệu Mỹ kim, chủ yếu của sự đầu tư này chỉ cho tung vào các quốc gia do chính nước ngoài đã lựa chọn. Các chương mục chuyển ngân về mậu dịch tại các ngân hàng hiện nay có thể cho người ta nhìn thấy rõ sự lựa chọn này.
Tổng giám đốc James D. Wolfensohn của Ngân hàng Thế giới gần đây đã khuyến cáo các quốc gia giầu phải cho tăng viện trợ phát triển theo lời của ông. Ông tổng giám đốc này cho biết "nguồn vốn tư nhân tại các quốc gia đang phát triển hiện sụt xuống nhìn thấy rõ, nó đi ngược lại với khuynh hường cách đây chục năm". Để đối phó với những ngân quỹ thâm thủng đang gia tăng trong các nền kinh tế dẫn đầu trên thế giới, bất cứ mức trợ giúp gia tăng nào cũng có sự dựt dây.
Một bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho biết, những căng thẳng về tài chánh hiện nay ảnh hưởng mạnh tới những khu vực mở ra cho công ty để cản trở việc đầu tư.
Giá của các cổ phần công ty rớt xuống làm cho công ty mắc nợ, việc làm công ty có lời là chuyện bất trắc, khiến cho ngân hàng thương mại phải thận trọng việc cho vay vốn tại các quốc gia có sự thu nhập cao. Hiện nay các quốc gia có thu nhập cao đang rút đi việc tài trợ về các đầu tư.
Việc kinh doanh không chắc chắn hiện nay đều nhắm vào sự tăng trưởng tương lai có thể đối với các nhu cầu hiện có, trong khi đó việc xuất vốn lại bị hạn chế .
Nguồn vốn đã giảm đi hẳn đối với những thị trường mới nhô lên, nguồn vốn này hoạt động giống như là loại ống giảm chấn đầu tư cho cái thế giới đang phát triển (có nghĩa là chấn động thị trường mạnh, vốn đầu tư được giam lại và sau đó cho bung ra từ từ.)
Các nước đang phát triển thấy cần phải mở tung các thị trường ra để đón nhận vốn đầu tư từ ngoài vào, các nước này coi như là để thay thế cho những trợ giúp chính thức song phương.
Vì thế năm 2000, tiền viện trợ để cho phát triển đã tính ra vào khoảng 54 tỷ Mỹ kim hay bằng một phần ba số tiền đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đổ vào các nước đang phát triển.
Viện dẫn theo Ngân hàng Thế giới, mặc dầu có sự tiến triển về hiệu quả của viện trợ ø như làm tăng trưởng sự thu nhập của người dân tại các nước giầu về tài nguyên và nhân lực, nguồn viện trợ này đã sụt hẳn vào năm 1990 theo đúng như hạn kỳ thực . Năm 2001 mức viện trợ xuống thấp dưới mức viện trợ của năm 1990 là 20% trong các hạn kỳ được điều chỉnh theo sự lạm phát.
Các mức viện trợ này đã được diễn đạt bằng sự phân ra số viện trợ không hồi lại, viện trợ không hồi lại đã làm tổng sản lượng quốc gia (GNP) sụt hẳn đi, từ 0,33 phần trăm năm 1990 xuống 0,22 phần trăm năm 2000.
Chính thực ra việc viện trợ không hồi lại của các quốc gia thường là những sản phẩm có tính cách tạo ra một thị trường tương lai tại quốc gia nhận viện trợ, một khi dân chúng của quốc gia nhận viện trợ đã ghiền loại sản phẩm của chính quốc gia cho viện trợ. Cái xu thế viện trợ này thấy đã hình thành tại Việt Nam.
Trong khi đó vốn đầu tư đã tạo ra được sức sản xuất cho cái thế giới đang phát triển, sự tăng truởng của thế giới này đã bị chậm hẳn lại vì các quốc gia sớm phát triển đã khước từ quốc gia nằm trong cái thế giới đang phát triển để tiến vào thị trường của những quốc gia sớm phát triển bằng đủ mọi hàng rào cản theo các chí tiêu do chính quốc gia sớm phát triển đã kinh qua .
Phong trào NAM (Non Aligned Movement) là phong trào không liên kết, phong trào này cho ra liền hội nghị thượng đỉnh cho các quốc gia không liên kết. Hội nghị thượng đỉnh này được mở ra tại thủ đô Kuala Lumpur của Mã Lai trong tuần qua, hội nghị thúc đẩy các quốc gia sớm phát triển phải cam kết về các thị trường được miễn thuế nhập khẩu cho một số quốc gia đang phát triển và bác bỏ những việc mậu dịch gắn liền với các chí tiêu về lao động, về môi sinh, về xã hội và về nhân quyền như là "những tiền đề để cản việc tiếp cận thị trường, hoặc ngăn cản vấn đề tiếp nhận viện trợ hay kỹ thuật để phát triển".


Tuần vừa qua, hội nghị bộ trưởng thương mại tại Tokyo không thấy có tiến triển nào về việc mậu dịch tự do nông phẩm, vấn đề cốt lõi đã nằm trong lần hội nghị tại Doha, thủ đô của Qatar trong vùng vịnh tại Trung Đông. Sự thất bại về tự do mậu dịch nông sản là cái bạt tai cho những quốc gia nghèo khó. Hoa kỳ thực chất đang bảo trợ các nông phẩm cho các chủ trại giầu có tại Hoa kỳ.
Khước từ cho các quốc gia đang phát triển đi vào các thị trường, các quốc gia giầu có đang cho dập tắt công cuộc toàn cầu hóa. Thế giới thứ ba là những quốc gia nghèo khó, các quốc gia này phải bán ra mới có tiền mua để làm cân bằng cán cân mậu dịch và cho đóng lại chương mục hiện bị thâm thủng theo như cơ quan IMF về ngân quỹ tiền tệ quốc tế đã yêu cầu.
Cho thay thế bằng nợ ngoài không có ngân dự trữ là một cái hãm hay cái phanh trên đà toàn cầu hóa.
Sự đình đốn hiện nay trong các thị trường giầu có đang đưa ra những nguy cơ cho chiến thế mậu dịch.
Theo như tạp chí Economist viện dẫn, sự căng thẳng giữa Tây Âu và Hoa kỳ có thể lan rộng ngoài cuộc chiến mậu dịch, đưa ra các vụ tranh chấp song phương mạnh mẽ về các trường hợp hưởng thuế đặc biệt và thuế biểu ø đánh vào thép trong việc mua bán của Hoa kỳ đã làm dấy động lớn tới nhiều quốc gia.
Hậu quả của chủ trương bảo hộï công nghiệp làm cho mậu dịch của vùng tăng lên nhanh hơn là mậu dịch của toàn cầu.
Sự hăm dọa về chiến tranh Iraq và biến cố 11/9 tạo ra những cảm xúc trong vùng và sự hợp tác kinh tế của các quốc gia nằm trong Nam bán cầu.
Khuynh hướng này đi theo chủ trương bảo vệ công nghiệp riêng, hạ thấp viện trợ và các nguồn đầu tư từ nước ngoài hầu như để lấy lại sức mạnh kinh tế do sự khủng hoảng của nền kinh tế công nghiệp đã làm suy yếu.
Ngoài ra, công cuộc toàn cầu hóa được vốn quốc tế tài trợ để tiếp dưỡng cho tăng truởng kinh tế đã bị những khoản nợ không trả được của thế giới thứ ba bị ảnh hưởng nặng. Những khoản nợ không trả đã ảnh hưởng tới cả hai vấn đề như mậu dịch và đầu tư. Trở ngại này còn lâu mới giải quyết được khi các quốc gia sớm phát triển vẫn đưa ra các hàng rào cản các nông sản của thế giới thứ ba đi vào thị trường của các quốc gia này.
Viện dẫn theo ông Robert J. Samuelson, cái nguy hiểm lớn nhất là có sự suy yếu kinh tế tương tác cùng một lúc tại Âu châu, Nhật bản và Hoa kỳ, sự suy yếu này làm tăng thêm mối bi quan và tạo ra một đợt khủng hoảng tài chánh.
Bản chất hiện tại của công cuộc toàn cầu hóa đang có khuynh hướng tạo ra một trật tự toàn cầu không cân đối để hoàn toàn phục vụ các quốc gia giầu có và làm cho những nước nào đã bị nghèo lại càng nghèo thêm. Khuynh hướng này còn đang loại cả những nước mới nằm trong đà phát triển như Việt Nam.
Các nền kinh tế tân tự do cũng đang làm cho mức nghèo đi lên trong vài quốc gia đã áp dụng các công thức xóa đói giảm nghèo của quỹ tiền tệ quốc tế IMF.
Trong mức độ này, phần lớn các quốc gia đã thoát ra khỏi ảnh hưởng đình trệ của các thị trường nằm trong quốc gia sớm phát triển. Các quốc gia thoát khỏi này là Trung quốc, Nam Hàn, Mã Lai và Ấn độ. Trung quốc thu hút đầu tư từ nước ngoài nhiều hơn bởi vì kinh tế Trung quốc có tăng trưởng cao, thị trường Trung quốc rộng nhắm vào giai tầng trung lưu tại Trung quốc đang cho lan rộng, còn Hoa kỳ vẫn còn quằn quại trong một nền kinh tế không có lối thoát.
Giới công nghiệp Hoa kỳ đang đòi hỏi Trung quốc phải định giá lại đồng tiền của Trung quốc để cho hàng xuất cảng của Trung quốc có giá cao hơn. Gần đây đa số cơ xuởng may dệt tại Hoa kỳ đã phải đóng cửa, các cơ xuởng này không cạnh tranh nổi với các hàng hóa bán ra quá rẻ của Trung quốc và của dân Á châu.
Hoa kỳ nay không còn là nơi thu hút tiền đầu tư của nước ngoài nữa, bởi vì các sự đầu tư vào công ty được tài trợ và ngân sách Hoa kỳ có sự thâm thủng và man toán. Tiền lời của các công trái Hoa kỳ đã trở nên mất hấp dẫn vì tiền lời ít nằm trong đồng Mỹ kim đang bị mất giá và quỹ dự trữ liên bang lại còn đang tiếp tục cho sụt lãi xuất xuống. Lòng tin vào thế đứng của công ty Hoa kỳ đã bị rúng động với hàng loạt kế toán biển lận.
Biến cố 11/9 và việc truy lùng đường dây chuyển tiền bất hợp pháp gây ra hậu quả là các tài khoản bỏ chạy khỏi Hoa kỳ để bỏ vào các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo, nguyên gốc của di dân tới Hoa kỳ là từ các quốc gia này.
Sự cân bằng hàng loạt các thâm thủng mà tổng sản lượng nội địa Hoa kỳ đã phải gánh chịu 5% cộng thêm với các nền tảng kinh tế khác của Hoa kỳ vốn suy yếu đang soi mòn hối xuất của đồng Mỹ kim.
Đồng Mỹ kim sụt giá đã làm mất đi những hào quang như là một thứ tiền dự trữ không bao giờ bị mất giá. Các ngân hàng trung ương của Trung quốc, Canada, Hong Kong, Thái Lan, Đài loan và Đông Âu đang chuyển đổi đồng tiền có nguy cơ mất giá để lưu trữ thêm đồng Euro.
Trước khi Liên bang Sô-viết bị sụp đổ năm 1991, nước Nga đã có 90 phần trăm tiền dự trữ là đồng Mỹ kim. Mãi cuối năm ngoái, Nga đã giảm việc trữ Mỹ kim xuống còn 75 phần trăm. Còn về đồng Euro, hiện nay Nga đã cho tăng để trữ đồng tiên này từ 10 phần trăm lên tới 20 phần trăm.
Dự đoán tin được là đồng Euro có thể chiếm tới 20 phần trăm các khoản tiền ngoại tệ dự trữ trên toàn cầu, hiện nay dự trữ đồng Euro là 15 phần trăm đã tăng từ 10 phần trăm một năm cách đây. Các tỷ xuất của đồng Mỹ kim trên các thị trường chỉ vào khoảng 1, 5 phần trăm theo như so sánh với 3,6 phần trăm nằm trong vùng đồng Euro. Đồng Euro là cái neo tiền tệ để mậu dịch trong những quốc gia Tây Âu.
Đồng Mỹ kim vẫn là thứ tiền dẫn đầu lập quỹ dự trữ và cái neo của mậu dịch thế giới. Nhưng sự bá quyền của đồng Mỹ kim đang phải đối đầu trước đồng Euro trong cái chủ trương đơn cực của Hoa kỳ với cái chủ trương đa cực của Tây Âu do Pháp và Đức dẫn đầu được Nga và Trung quốc hỗ trợ. Trung quốc và Nga là hai quốc gia có nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác.
Chủ trương tấn công phủ đầu của ông Bush với hành động đơn phương cho giải giới Iraq đã đem lại sự chia rẽ giữa các cường quốc lớn và phục vụ cho cái phương thế xúc tác làm cho phong trào không liên kết sống trở lại.
Trong cái khung hoạt động của chủ trương đa cực, cả hai Tây Âu và phong trào NAM muốn tuyên bố là khung hoạt động của cả hai đều vì toàn cầu. Chủ trương đơn cực của Hoa kỳ với Anh quốc đã quẳng Hoa kỳ và Anh quốc vào tình trạng cô lập về chính trị.
Trong sinh thái thế giới đang thay đổi, phong trào NAM đã lập lại những đòi hỏi về một trật tự hợp lý và cân đối để cho phép các quốc gia đang phát triển có lời tuyên bố về quyết định giải quyết các trở ngại kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa là con đường hai chiều có quyền lợi hỗ tuơng cho cả đôi bên, một bên là nền kinh tế sớm phát triển và một bên là nền kinh tế đang phát triển, toàn cầu hóa không có thể là việc cưỡng đoạt chủ quyền của các quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh của phong trào NAM tại Kuala Lumpur đã trình bày những quan tâm sâu sắc về việc bỏ các quốc gia đang phát triển ra ngoài lề trong tiến trình toàn cầu hóa để phải đối đầu với các hàng rào cản tiến vào các thị trường, việc ngăn chặn tiếp cận vốn và kỹ thuật để phát triển.
Trong những năm qua, cộng đồng quốc tế đã quá phụ thuộc vào Hoa kỳ, ngày nay tới lúc để thay đổi.
Tổng giám đốc James D Wolfenson của Ngân hàng Quốc tế tuyên bố:
"Chúng ta không phải phụ thuộc, hay phục tùng với bất cứ một thứ khống chế nào về các giá trị hay các quan điểm để phát triển. Nhận định cho kỹ đề xuất then chốt xen lẫn trong việc phải phụ thuộc."
Tổng giám đốc này còn tuyên bố thêm:
"Đa dạng tính đều cung cấp một nguồn lực có sức mạnh cho cả hai cấp độ quốc gia và toàn cầu. Đa dạng tính này là chính cái phải được khởi sướng."
( Bài này được Kim Lai phỏng theo bài bình luận của Jawaid Bokhari được đăng trên báo Strait Times)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.