Như đã trình bày, trưa ngày 30 tháng 3/1972, CQ đã tung 45 ngàn quân vượt sông Bến Hải tấn công cường tập vào các cứ điểm phòng ngự của Sư đoàn 3 BB và đơn vị tăng phái tại giới tuyến. Do áp lực quá nặng của Cộng quân, chiều tối ngày 1 tháng 4/1972, các căn cứ dọc theo chu vi phòng thủ phía Bắc được di tản và lập cụm phòng tuyến mới kéo dài từ Cửa Việt đến phía Tây Cam Lô, tiếp đến ngày 2 tháng 4/1972, Cộng quân đã hỏa tập dữ dội căn cứ Carroll-bản doanh của trung đoàn 56 BB, đến 2 giờ 30 chiều cùng ngày, căn cứ trọng điểm này thất thủ. Trong hai ngày kế tiếp, áp lực của CQ đã đè nặng lên toàn cụm tuyến phòng thủ phía Tây Đông Hà. Căn cứ Ái Tử-bản doanh của bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB bị pháo kích dữ dội. Ước định tình hình, chuẩn tướng Vũ Văn Giai đã quyết định di chuyển bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 3 BB từ Ái Tử về Cổ Thành Quảng Trị, việc phòng thủ căn cứ này được giao lại cho lữ đoàn 258 TQLC tăng phái.
Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 4/1972, CQ nỗ lực mở các cuộc tấn công để chọc thủng cụm phòng tuyến của Sư đoàn 3 BB và lực lượng tăng phái (hai lữ đoàn 147 và 258 TQLC là nỗ lực chính) nhưng địch quân đã bị đẩy lùi. Theo sự báo cáo của các đơn vị trú phòng, đội hình tấn công của CQ đã bị lực lượng VNCH bẻ gãy, sự hiệp đồng trong tác chiến giữa bộ binh và chiến xa bị phá vỡ, nhiều đơn vị CQ đã phải rút khỏi trận địa trong hỗn loạn dưới các trận hỏa tập rất có hiệu quả của Pháo binh và Thiết giáp thống thuộc và tăng phái Sư đoàn 3 BB và hỏa lực của các đơn bộ chiến VNCH. Trong thời gian này, Cộng quân đã rút khỏi các tuyến tấn công để về tuyến sau tái bổ sung quân số và điều chỉnh kế hoạch.
* Sự bất đồng giữa tư lệnh Quân đoàn 1 và tư lệnh Sư đoàn 3 BB về kế hoạch phòng thủ Quảng Trị:
Để tăng cường cho lực lượng phòng thủ tại mặt trận giới tuyến, bộ Tổng tham mưu đã điều động hai liên đoàn 4 và 5 Biệt động quân ở miền Đông Nam phần cùng với liên đoàn 1 Biệt động quân thống thuộc Quân đoàn 1, khẩn cấp tiếp ứng cho Sư đoàn 3 Bộ binh. Theo ghi nhận của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng trình bày trong một bài viết cho Ủy ban Quân sử Hoa Kỳ, thì đã có sự bất đồng lớn giữa vị tư lệnh Quân đoàn 1 lúc bấy giờ là trung tướng Hoàng Xuân Lãm và chuẩn tướng Vũ Văn Giai-tư lệnh Sư đoàn 3 BB về việc sử dụng và phối trí các binh đoàn tăng cường trong đó có 3 liên đoàn Biệt động quân nói trên. Theo phân tích của cựu trung tướng Ngô Quảng Trưởng, thì tướng Lãm đã lạc quan khi ra lệnh cho bộ Tham mưu Quân đoàn 1 nghiên cứu một kế hoạch phản công sẽ được tiến hành sau khi Không quân chiến thuật thực hiện một loạt phi vụ oanh tạc ở mức cao nhất. Sự lưu tâm của tướng Lãm về kế hoạch phản công đã làm thay đổi và chuyển hướng thiết kế của bộ Tham mưu Quân đoàn đang cố gắng tái phối trí và tái tổ chức hệ thống phòng thủ chiều sâu, một việc làm cần được đặt một ưu tiên trong tình hình nghiêm trọng như thế.
Khi ra lệnh tiến hành kế hoạch phản công, tướng Lãm tin tưởng ở tiềm lực chiến đấu từ sự tăng cường của các lực lượng tổng trừ bị và trừ bị gồm 3 liên đoàn Biệt động và liên đoàn 369 TQLC cùng với 2 lữ đoàn 147 và 258 TQLC đang tham chiến tại mặt Quảng Trị. Vị tư lệnh Quân đoàn 1 tin rằng với các binh đoàn tăng cường này, Quân đoàn 1 không những giữ vững tỉnh Quảng Trị mà còn có thể tái chiếm các khu vực đã bị CQ đánh chiếm trong một thời gian ngắn.
Chính với sự lạc quan này, trung tướng Lãm đã liên tiếp bác bỏ các yêu cầu của vị tư lệnh Sư đoàn 3 BB xin Quân đoàn tăng cường các liên đoàn BĐQ cho kế hoạch củng cố hệ thống bố phòng tỉnh Quảng Trị. Thế nhưng tướng Giai vẫn kiên nhẫn giải thích cho tướng Lãm thấy được nguy cơ rất bi thảm sẽ xảy ra nếu không có đủ lực lượng phòng thủ vòng đai Quảng Trị. Một sĩ quan bộ Tham mưu Sư đoàn kể lại rằng: trong một lần trình bày với trung tướng Lãm về tình hình chiến trường Quảng Trị, chuẩn tướng Giai đã nói:
- Thưa trung tướng, với tình hình hiện nay, không thể nào tiến hành các cuộc phản công mà nên dành mọi ưu tiên để củng cố phòng thủ chận địch, nếu không Quảng Trị có thể bị mất.
Theo tài liệu của cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng-người thay thế trung tướng Lãm vào ngày 2 tháng 5/1972 sau khi Quảng Trị thất thủ, cuối cùng vị tư lệnh Quân đoàn 1 đã miễn cưỡng tăng phái cho Sư đoàn 3 BB một liên đoàn BĐQ đầu tiên, sau đó thêm một liên đoàn Biệt động quân thứ hai. Đến giữa tháng 4/1972, khi tình hình quá nguy kịch, trung tướng Lãm đã tăng cường tiếp cho Sư đoàn 3 BB thêm hai liên đoàn BĐQ. Rốt cuộc, tất cả 3 liên đoàn BĐQ có mặt tại chiến trường Quảng Trị đã được tướng Lãm đặt thuộc quyền điều động của bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB. Liên đoàn 6 BĐQ cũng được bộ Tổng tham mưu điều động tăng viện cho chiến trường giới tuyến, tuy nhiên khi liên đoàn vừa khai triển khu vực hoạt động thì được lệnh di chuyển lên Dakto để thay cho lữ đoàn Nhảy Dù vào ngày 20/ 4/1972.
* Sư đoàn 3 Bộ binh và 3 liên đoàn Biệt động quân lập cụm tuyến phòng thủ Đông Hà-Quảng Trị:
Với 3 liên đoàn Biệt động quân cùng với 2 trung đoàn 2 và 57 Bộ binh, chuẩn tướng Giai đã tái phối trí lực lượng phòng thủ, lập cụm phòng ngự chiều sâu. Theo đó, ngoài khu vực phía Tây do các đơn vị TQLC đảm trách, các binh đoàn thống thuộc và tăng phái được phối trí như sau:
- Trung đoàn 2 BB trách nhiệm phòng thủ khu vực phía Nam của Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Ba tiểu đoàn dàn quân tạo thế liên hoàn trong phòng ngự để ngăn chận CQ đánh chiếm Quốc Lộ 1 đoạn Quảng Trị-Ái Tử.
- Liên đoàn 1 BĐQ phòng thủ phía Nam sông Thạch Hãn, giữ mặt Tây Quảng Trị, một đơn vị của liên đoàn án ngữ khu vực La Vang; trung đoàn 57 BB cùng với 2 liên đoàn 4 và 5 BĐQ phòng thủ tuyến Đông Hà và mặt Đông căn cứ Ái Tử.
* Trận chiến Quảng Trị nhìn từ phía các cố vấn Hoa Kỳ:
Nhận xét về cuộc tổng tấn công của CSBV dưới cái nhìn của một cố vấn Hoa Kỳ, đại tá Gerald Turley, cố vấn Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, người đã có mặt tại Quảng Trị ngay từ ngày đầu của cuộc chiến, khi ông đang đi thăm các cố vấn Hoa Kỳ của các đơn vị Thủy quân Lục chiến VNCH, đã nhận định như sau: Cuộc tổng tấn công của CSBV đã được báo cáo ngay về bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 và nơi đây cũng lập tức báo cáo về bộ Tổng tham mưu VNCH. Lúc đó, bộ Tổng tham mưu không có một hành động cấp thời, vì tất cả mọi người đều có ý rằng: trục tấn công chính của quân đội CSVN từ phía Bắc mà đó chỉ là Diện mà Điểm của cuộc tấn công là một nơi nào đó ở phía Tây. Còn tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Vùng 1 (Quân khu 1) cũng nói rằng: Tấn công qua khu vực phi quân sự là vi phạm hiệp định đình chiến Genève 1954 (ký ngày 20 tháng 7/1954).
Đại tá Turley ghi nhận tiếp: Đối với các cấp chỉ huy Việt Mỹ tại tỉnh Quảng Trị, thì không còn gì phải nghi ngờ nữa, chắc chắn chính diện của cuộc tấn công của CSVN là khi vực phi quân sự. Đây là lần đầu tiên, sau sáu năm, QLVNCH phải chiến đấu đơn độc trên chiến trường. Họ chiến đấu vì danh dự và tự do của miền Nam Việt Nam.
* Sự yểm trợ của Hạm đội 7 trong những tuần đầu của cuộc chiến.
Về phía Hoa Kỳ, cũng theo lời của đại tá Turley, đại tướng Abrams-tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam-đã tức giận vì ông ta không có đầy đủ dữ kiện của mặt trận Quảng Trị, trong khi đó, bộ Chỉ huy Hải quân Hoa Kỳ tại vùng Thái Bình Dương lại có đầy đủ tin tức hơn, bởi vì việc xin yểm trợ hải pháo trực tiếp từ Trung tâm Hành quân Sư đoàn 3 Bộ binh VNCH đến các tàu Hải quân của Đệ thất Hạm đội và từ đó những hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ được báo cáo về thẳng bộ Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương đặt tại Hạ Uy Di. Có thể nói rằng hải pháo đã làm chậm bước tiến của CSBV trong những ngày đầu của cuộc chiến trong khi mà sự hoạt động của Không quân bị hạn chế do thời tiết xấu. Cùng thời gian này, tại Trung tâm Hành quân của Hoa Kỳ ở Đà Nẵng, đơn xin không yểm (yểm trợ của không quân) đã dồn dập gởi về.
Theo ghi nhận của cựu trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng phòng 3 Sư đoàn TQLC, thì sau khi cuộc chiến xảy ra, hỏa lực của Không quân chiến lược (B 52) và chiến thuật đã được tăng cường khẩn cấp để oanh tạc các vị trí tập trung quân CSBV tại giới tuyến và tại Bắc Việt. Hai hàng không mẫu hạm Kitty Hawk và Coral Sea đã tiến vào hải phận Việt Nam để hợp lực cùng với hai hàng không mẫu hạm Hancock và Constellation hiện có trong vùng, nâng con số phi cơ oanh tạc của Không quân lên tới 275 chiếc, cộng với 250 chiếc khác của Không quân Hoa Kỳ từ Đà Nẵng và Thái Lan, tổng cộng có đến 525 phi cơ Hoa Kỳ yểm trợ. Đây là hỏa lực không trợ hùng hậu chưa từng thấy, kể từ sau cuộc oanh tạc Bắc Việt vào năm 1968.
Kỳ sau: Những trận kịch chiến hạ tuần tháng 4 trên phòng tuyến Quảng Trị giữa lực lượng Sư đoàn 3 BB, Biệt động quân, Thiết giáp VNCH và 3 sư đoàn CSBV.