Bạn,
Trong dòng sân khấu cổ truyền VN, tuồng được xem như một môn nghệ thuật bác học. Mọi diễn tiến trong tuồng đều đòi hỏi tính nghệ thuật cao, trong đó hoá trang là yêu cầu số một. Báo Sắc Màu Văn Hóa viết về nghề hoá trang tuồng cổ như sau.
Không như hoá trang trong các sân khấu khác như chèo hay cải lương, nghệ thuật hoá trang trong tuồng mang tính biểu tượng cao. Có người cho rằng hoá trang của tuồng cổ ở VN là phỏng theo hoá trang các vai diễn của kinh kịch Trung Quốc. Trên thực tế, nghệ thuật hoá trang trong tuồng cổ VN có nét đặc trưng của nó. Hoá trang trong kinh kịch Trung Quốc có phần nhiều màu sắc hơn, trong khi đó hoá trang của tuồng chủ yếu là 3 mầu chính là đỏ, đen và trắng. Hoá trang kinh kịch thường sử dụng mảng mầu, ngoài ra còn thể hiện những kí hiệu đặc thù như hình mũi kích, hình con rắn... Hoá trang tuồng VN, mang những nét mềm mại là chủ yếu.
Những nét hoá trang của tuồng đều dựa trên các cơ mặt, mà từ chuyên môn gọi là nan. Do đó hoá trang tuồng gần và phù hợp với diễn viên thủ vai hơn. Nhờ đó các diễn viên có thể tăng hiệu quả hơn khi thể hiện tính cách, hay bộc lộ nội tâm nhân vật bằng cơ mặt. Một đặc điểm nổi bật ở hoá trang tuồng, là thường không hoá trang hai hốc mắt. Nhiều giả thiết cho rằng, đó là do ảnh hưởng từ tục vẽ mặt nạ của ông cha xưa, bỏ lại khoảng trống nơi hốc mắt để "đục lỗ" cho mắt nhìn qua.
Với tuồng, chỉ riêng đề cập tới nghệ thuật hoá trang thôi, đã có biết bao nhiêu điều để nói. Song, có một vấn đề không thể xem nhẹ là hiện nay, nghệ thuật hoá trang tuồng truyền thống đang dần bị mai một. Trước đây, các diễn viên vừa học nghề, vừa học hoá trang. Có hàng trăm mẫu theo tính cách nhân vật đã được chuẩn hoá, và các diễn viên đều phải thuộc lòng. Việc tự hoá trang sẽ giúp diễn viên hoá thân vào vai diễn. Mặt khác, họ sẽ tự biết khắc phục những điểm yếu trên khuôn mặt của mình để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Theo họa sĩ Đoàn Thị Tình, thì mỗi diễn viên mới vào nghề phải học ít nhất là một năm mới có thể hoá trang đúng theo mẫu, còn để có thể nhuần nhuyễn như các nghệ sĩ, thì còn tùy thuộc vào năng khiếu. Mỗi một nhân vật, để hoá trang hoàn chỉnh phải mất cả giờ đồng hồ. Do đó nếu các diễn viên chỉ chờ vào người hoá trang hộ, sẽ không thể có được một nhân vật hoá trang đẹp. Đó là chưa nói tới, do không được đào tạo một cách chính quy, các diễn viên trẻ sẽ không hiểu thấu đáo các mẫu cổ, mà chỉ biết đến dị bản. Dần dà sẽ bị "thật bản". Trong khi đó tại các trường nghệ thuật lại không có môn học chính thức về hoá trang tuồng, mà chỉ học về hoá trang chung chung. Chỉ có một số rất ít người "vì nghiệp" mà theo đuổi, nghiên cứu giữ gìn nghệ thuật này.
Bạn,
Báo quốc nội viết tiếp: phải chăng là do quan niệm của những người làm công tác đào tạo chưa coi hoá trang tuồng truyền thống như một môn học, cần thiết. Hơn nữa, lớp trẻ tuy đang theo học, nhưng chưa thật sự yêu nghệ thuật tuồng, nên không thấy nguy cơ sẽ mất đi nét đẹp độc đáo của nghệ thuật hoá trang tuồng truyền thống.
Trong dòng sân khấu cổ truyền VN, tuồng được xem như một môn nghệ thuật bác học. Mọi diễn tiến trong tuồng đều đòi hỏi tính nghệ thuật cao, trong đó hoá trang là yêu cầu số một. Báo Sắc Màu Văn Hóa viết về nghề hoá trang tuồng cổ như sau.
Không như hoá trang trong các sân khấu khác như chèo hay cải lương, nghệ thuật hoá trang trong tuồng mang tính biểu tượng cao. Có người cho rằng hoá trang của tuồng cổ ở VN là phỏng theo hoá trang các vai diễn của kinh kịch Trung Quốc. Trên thực tế, nghệ thuật hoá trang trong tuồng cổ VN có nét đặc trưng của nó. Hoá trang trong kinh kịch Trung Quốc có phần nhiều màu sắc hơn, trong khi đó hoá trang của tuồng chủ yếu là 3 mầu chính là đỏ, đen và trắng. Hoá trang kinh kịch thường sử dụng mảng mầu, ngoài ra còn thể hiện những kí hiệu đặc thù như hình mũi kích, hình con rắn... Hoá trang tuồng VN, mang những nét mềm mại là chủ yếu.
Những nét hoá trang của tuồng đều dựa trên các cơ mặt, mà từ chuyên môn gọi là nan. Do đó hoá trang tuồng gần và phù hợp với diễn viên thủ vai hơn. Nhờ đó các diễn viên có thể tăng hiệu quả hơn khi thể hiện tính cách, hay bộc lộ nội tâm nhân vật bằng cơ mặt. Một đặc điểm nổi bật ở hoá trang tuồng, là thường không hoá trang hai hốc mắt. Nhiều giả thiết cho rằng, đó là do ảnh hưởng từ tục vẽ mặt nạ của ông cha xưa, bỏ lại khoảng trống nơi hốc mắt để "đục lỗ" cho mắt nhìn qua.
Với tuồng, chỉ riêng đề cập tới nghệ thuật hoá trang thôi, đã có biết bao nhiêu điều để nói. Song, có một vấn đề không thể xem nhẹ là hiện nay, nghệ thuật hoá trang tuồng truyền thống đang dần bị mai một. Trước đây, các diễn viên vừa học nghề, vừa học hoá trang. Có hàng trăm mẫu theo tính cách nhân vật đã được chuẩn hoá, và các diễn viên đều phải thuộc lòng. Việc tự hoá trang sẽ giúp diễn viên hoá thân vào vai diễn. Mặt khác, họ sẽ tự biết khắc phục những điểm yếu trên khuôn mặt của mình để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Theo họa sĩ Đoàn Thị Tình, thì mỗi diễn viên mới vào nghề phải học ít nhất là một năm mới có thể hoá trang đúng theo mẫu, còn để có thể nhuần nhuyễn như các nghệ sĩ, thì còn tùy thuộc vào năng khiếu. Mỗi một nhân vật, để hoá trang hoàn chỉnh phải mất cả giờ đồng hồ. Do đó nếu các diễn viên chỉ chờ vào người hoá trang hộ, sẽ không thể có được một nhân vật hoá trang đẹp. Đó là chưa nói tới, do không được đào tạo một cách chính quy, các diễn viên trẻ sẽ không hiểu thấu đáo các mẫu cổ, mà chỉ biết đến dị bản. Dần dà sẽ bị "thật bản". Trong khi đó tại các trường nghệ thuật lại không có môn học chính thức về hoá trang tuồng, mà chỉ học về hoá trang chung chung. Chỉ có một số rất ít người "vì nghiệp" mà theo đuổi, nghiên cứu giữ gìn nghệ thuật này.
Bạn,
Báo quốc nội viết tiếp: phải chăng là do quan niệm của những người làm công tác đào tạo chưa coi hoá trang tuồng truyền thống như một môn học, cần thiết. Hơn nữa, lớp trẻ tuy đang theo học, nhưng chưa thật sự yêu nghệ thuật tuồng, nên không thấy nguy cơ sẽ mất đi nét đẹp độc đáo của nghệ thuật hoá trang tuồng truyền thống.
Gửi ý kiến của bạn