"Sở dĩ mãi tới ngày hôm nay tôi mới cho ra đời tác phẩm Thiên Sử Thi Của Người Vượt Biển một phần vì tôi quá bận với công tác đấu tranh ở hải ngoại. Một mặt khác cũng phải đợi cho một biến cố lịch sử kết thúc và lắng yên chúng ta mới có một cái nhìn toàn cảnh về nó. Giả thử khi cuộc chiến đang còn đang bốc khói mà chúng ta viết về cuộc chiến đó thì nó chỉ có tác dụng như một bài phóng sự chiến trường. Phải để cuộc chiến chấm dứt chúng ta mới thấy bộ mặt thực của cuộc chiến tranh, sự mất mát và tổn thất của cả dân tộc. Do đó nếu vào năm 1987 hay 1988 mà tôi cho ra đời thiên sử thi này thì tôi chỉ nhìn thấy một góc cạnh của thảm kịch thuyền nhân, không hiểu nổi nỗi đau của các thuyền nhân ở các trại tỵ nạn Hongkong v.v. và mục đích cuối cùng của cuộc bỏ nước ra đi này. Một biến cố lịch sử lớn lao của dân tộc thì không thể không có sử thi để ghi lại cho đời sau. Cho đến bây giờ Việt Nam chúng ta không hề có sử thi. Truyện Kiều là một tác phẩm văn chương nói về nỗi gian truân của một cô gái ở bên Trung Hoa phải bán mình chuộc cha không phải là sử thi. Cung Oán Ngâm Khúc nói về thân phận hẩm hiu của nàng cung nữ bị thất sủng không phải là sử thi. Chinh Phụ Ngâm nói về nỗi đau đớn của người đàn bà năm tháng mòn mỏi chờ chồng đi chinh chiến cũng không phải là sử thi. Tôi đã noi theo truyền thống sử thi Cổ Hy Lạp để viết tác phẩm này. Theo truyền thống thì thiên sử thi đều bắt nguồn từ sự mời gọi, thôi thúc của thần linh - thần linh ở đây khác với ý niệm Thượng Đế. Trong Thiên Sử Thi Của Người Vượt Biển tôi đã dùng lời kêu gọi của Thần Núi Tản Viên để thúc dục con dân Việt Nam phải bỏ nước ra đi không ngoài mục đích thần thánh hóa và nâng lên một tầm cao ý nghiã của cuộc bỏ nước ra đi vô tiền khoáng hậu này. Vượt biển ra đi không phải chỉ để trốn chạy một chế độ bạo tàn, mưu tìm tự do không thôi - mà còn phải quay về để cứu nguy dân tộc và xây dựng lại quê hương:
Ta là Thần Núi Tản Viên.
Vốn giữ gìn giềng mối,
Và uy linh cho dân tộc.
Cũng cảm thấy xót xa !
Nay ta nói lên lời máu lệ:
Khuyên các người chỉ vì kế lâu dài.
Hãy hướng ra Biển Đông để tìm sinh lộ.
Hãy thét to lên cho loài người được rõ:
Rằng nơi này loài quỷ rất hung tàn!
Rằng nơi này Việt tộc quá lầm than!
Nếu không khéo sẽ có ngày diệt chủng!
Hãy ra đi để tương lai được sống.
Đến nơi rồi hãy quần tụ bên nhau.
Hãy thắp lên ngọn Đuốc Việt nhiệm mầu.
Hãy đoàn kết, hãy mưu đồ phục quốc.
Hãy chờ đợi một thời cơ thuận tiện.
Hãy quay về để dựng lại quê hương.
Kìa phương đông chói lọi một vầng dương!
Trong nỗi chết đã nảy mầm sự sống.
Hãy quyết liệt, hãy căng buồm gió lộng.
Hãy ra đi và đừng có ngại ngần.
Ta nói lời máu lệ hỡi muôn dân !
Và cuối cùng, trải bao đau thương bao biến cố kinh hoàng, người đã đi tới bờ tới bến rồi thì làm gì đây" Chúng ta mong chờ ngày cộng sản xụp đổ lúc đó chúng ta sẽ trở về như một thiên anh hùng ca giống như thiên sử thi, thiên anh hùng ca của Ulysses sau chiến thắng ở Thành Troy trở về quê hương cũ. Nhân đây tôi cũng xin cám ơn chị Bích Ty đã diễn ngâm bài thơ Rủ Nhau Ta Về là bài thơ cuối cùng trong Thiên Sử Thi đã nói lên phần nào mộng ước cuối cùng của người vượt biển. Ngày mà chế độ cộng xụp đổ chúng ta sẽ dùng thơ để diễn tả bước đi của triệu người trên đường trở về quê hương, từng giọt nước mắt, bao háo hức, bao mong chờ, hằng triệu người cùng quỳ xuống hôn lên mảnh đất cũ giữa giờ phút linh thiêng và thề sẽ tái dựng lại quê hương. Tôi mong rằng các nhà thơ lớn ở hải ngoại hãy nghĩ tới chuyện đó để sau này có một thiên sử thi, một thiên anh hùng ca cho dân tộc Việt Nam.
Trong thiên sử thi này có những đoạn mà khi sáng tác tôi đã khóc rất nhiều, chẳng hạn như hình ảnh một cô gái chiều chiều ra Bãi Biển Nha Trang để ấp ủ giấc mơ vượt biên.
Chiều trên Bãi Biển Nha Trang
Trùng trùng cờ đỏ, khăn tang cuộc đời
Chim ơi buồn lắm chim ơi
Ta không có cánh theo người bay đi.
Cô gái chỉ muốn biến thành cánh chim hải âu để bay đi, muốn biến thành con sò, thành loài rong rêu hay là chiếc chai trôi giạt mà đời lại có tự do hơn ! Thế nhưng muốn tham gia cuộc tự sát tập thể này thì cũng phải có mấy cây vàng !
Rồi những đoạn khi đoàn lữ hành, đoàn người vượt biển rời Quảng Ngãi:
Rời Quảng Ngãi thương Sa Huỳnh nghèo lắm
Việt Cộng về tan tác cả tình quê
Nhìn sao khuya ta cố ngoái trông về
Thương dáng mẹ hao gầy từ Cổ Lũy
Những đoạn thơ tả lại cảnh công an và du kích săn đuổi đoàn người vượt biên khi họ núp đụp suốt đêm tối ở mé bờ sông:
Trăng vàng úa trăng treo trên Rừng Sát
Từng tốp người bám sát mé bờ sông
Dưới rặng bần con nước trải mênh mông.
Chờ "cá lớn" bốc nhanh ra ngoài biển
Đêm kinh dị đêm chập chờn bí hiểm
Tiếng thầm thì sợ tắt ngúm đầu môi
Đàn muỗi rừng tìm hút máu đào tươi
Từng tiếng vỗ nhách lên như tiếng ếch
Bầy con nít mệt phờ không buồn khóc
Người mẹ quỳ nước sấp tới bờ lưng
Dưới rặng bần con nước trải mênh mông
Vẫn gìn giữ đứa con không thấm ướt.
Sau này khi chúng ta chết đi, con cái chúng ta có đứa trở thành bác sĩ, kỹ sư, dân biểu, thượng nghị sĩ hoặc thị trưởng của một thành phố nếu như có cơ hội đọc lại tác phẩm này chúng nó sẽ thấy bố mẹ chúng nó đã đánh đổi cả sinh mệnh của mình để chúng nó có được tương lai như ngày hôm nay. Rồi những hình ảnh thê lương của người tỵ nạn khi đón Tết trên đảo:
Biển lặng lòng người như đám ma.
Cúi đầu đón Tết nhớ quê cha.
Buồn ơi! xoong chảo thi nhau gõ.
Pháo đón giao thừa trên xứ xa.
Mẹ nói ba mươi đêm linh thiêng.
Hương hoa dâng cúng ở bàn thiên.
Năm nay mẹ khóc đêm trừ tịch.
Đảo nhỏ con quỳ một nén nhang.
Chúng ta cần phải ghi lại những hình ảnh này vì hiện nay cộng sản muốn dùng những Nguyện Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến để bôi xóa căn cước của người tỵ nạn. Mà cho dù lịch sử sau này có ghi chép tội ác của đảng cộng sản thì cũng chỉ ghi chép vắn tắt. Chẳng hạn dưới thời Hồ Quý Ly lịch sử chỉ ghi ngắn gọn: " Chịnh trị họ Hồ phiền hà " nhưng còn phiền hà như thế nào thì cần phải có thi, ca, truyện, kịch của thời đại ghi lại. Con cháu chúng ta sau này chúng nó giỏi lắm: Có đứa sẽ là kịch tác gia, có đứa sẽ là đạo diễn phim ảnh, điêu khắc gia chúng nó sẽ làm sống dậy lịch sử nếu như nếu như chúng ta để lại các tác phẩm văn chương nói về giai đoạn bi thảm này. Chẳng hạn nếu như sau này chúng ta xây dựng được một Bức Tượng Bà Mẹ Vượt biên tại Cửa Biển Vũng Tàu hay Bà Rịa thì đó là biểu tượng cho ngàn đời sau hiểu rằng đất nước này phải có Tự Do, phải được xây dựng trên nền móng Tự Do:
Tượng tôi là tượng Nữ Thần
Tự Do vượt biển bội phần gian nan
Ôm con liều chết bước lên
Phong ba, hải tặc, chiếc thuyền mong manh.
Đấy, tác dụng của thi ca thật lớn lao. Chẳng hạn khi đọc bài thơ của Trần Quang Khải:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
Đọc xong bài thơ này chúng ta thấy từ bậc sĩ phu tới thứ dân ai nấy đều bừng bừng khí thế và sôi sục lòng ái quốc. Thi ca có tác dụng đoàn kết dân tộc nhanh nhất vì thi ca đi vào lòng người nhanh nhất. Một dân tộc có thi ca là một dân tộc không bao giờ bị tiêu diệt vì kẻ thù có thể đốt hết sách vở nhưng không bao giờ "đốt"được những bài thơ đã nằm sâu trong tim trong óc con người. Mà muốn có thi ca thì phải có một nền văn học cao. Thi ca chính là lâu đài dựng trên nền văn học. Cho nên chúng ta phải có trách nhiệm xây dựng một nền thi ca mới đi sát với những diễn biến lịch sử để truyền lại muôn đời con cháu mai sau những gì chúng ta muốn nói ở thời đại ngày hôm nay."
Buổi ra mắt Thiên Sử Thi Của Người Vượt Biển đã thật sự sống động bởi tài điều khiển chương trình của nhà thơ Ái Cầm và chị Bích Ty cùng sự diễn ngâm của Bích Ty, Phi Loan qua các bài thơ Phong Ba Chợt Đến, Rủ Nhau Ta Về, Tạ Ơn Biển và Mai Tôi Chết Xin Đừng Đem Đấu Giá với sự phụ họa của tiếng sáo Ngọc Nôi.