Hôm nay,  

30 Tháng Tư , Đọc Lại Những Ngày Ở Sài Gòn (1965)

12/04/200200:00:00(Xem: 4422)
(Tặng Phạm Năng Cẩn)

Nơi tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp; tôi là chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc vô tuyến điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ đô các quốc gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi chiều, "Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở Hongkong, hoặc Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi hỏi thăm những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa đông ở nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương cũ… Chiến tranh ngăn chặn quá khứ một quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả những ước mơ khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức mà từng đứa lựa chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập Yoga, ăn cơm gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận cùng bằng câu, "Bao giờ thì hoà bường"" Không bao giờ anh dùng từ "hoà bình", như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng của tôi, người bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân vật của Koestler, gã tù nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất thời đại, "Bebout les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì "debout", "Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành "Tùng lên, tùng lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát bấy, khi tôi hỏi tìm gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những trang khiêu dâm). Tường tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng tượng trên thế gian không còn đàn bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã chót già, nhưng chết vì cuộc chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không phải chúng tôi muốn tiếp tục, "Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người" (1).

Chiến tranh, đó không phải thứ khổ đau mà có khi con người phải tạo ra như một cái cớ để đương đầu, để tìm kiếm một thứ hạnh phúc biết đâu ở phía sau, ở phía bên kia niềm khổ đau. Chiến tranh đó là một thứ khổ đau được nhân lên không biết bao nhiêu lần, không xây dựng mà là hủy diệt, ngăn cỏ mọc, huỷ những lời nói yêu thương, hạnh phúc, những tình tự… Mai nói bằng một giọng đều đều, "Anh Tam vẫn tỏ vẻ ghét chiếc mũ sắt nặng nề. Người ốm nhom, mắt cận thị, anh mặc áo thung, đội chiếc mũ sắt đứng trước gương ngắm nghía, một lát sau anh quay nhìn Mai, nói đùa, "Chết như thế này không ổn, nặng quá… không phải ý nghĩa của cái chết, mà là cái chết trở thành một đồ vật nặng nề…", hôm đó anh dẫn mấy người lính đi tuần tra quanh vùng đóng quân, một người lính giẫm phải mìn… Mai lật từng tấm vải trắng phủ mặt những xác chết nhưng không thể nhận ra một trong những tử thi đó, là anh Tam của Mai ngày xưa. Thần Chết như chơi trò đố tìm với Mai, và đã xóa hết những dấu vết quen thuộc, như muốn đánh lừa, hoặc muốn che giấu Mai một ý nghĩa nào đó, hoặc một lời dặn dò của người đã chết… Phải tưởng tượng xác chết giá lạnh kia, là người thân thương ngày xưa, phải tưởng tượng khoảng trống kia là cái miệng vẫn tươi cười, khoảng sâu hoắm cao hơn chút nữa là đôi mắt long lanh nhìn Mai tuần trước… Phải hiểu rằng chết là như thế đó, và đời sống lúc này phải kết thúc như vậy, không có cách nào khác. Anh Thụ, người con trai độc nhất của bác Mai, anh Tam và Mai là bạn từ hồi nhỏ, cả hai người con trai đều luôn luôn chiều chuộng săn sóc Mai, đứa con gái ốm yếu, gầy còm, vừa cất tiếng khóc chào đời, mẹ đau nặng, phải tập sống bằng nước cơm, suốt đời không biết mùi sữa mẹ, thay vào đó là mùi vị căn bệnh phong thấp quái ác, mỗi lần thời tiết thay đổi, hai chân tê cứng không làm sao cất bước… Anh Thụ đi lính, anh Tam bắt chước, anh Thụ chết trước độ một năm, anh Tâm theo luôn, hai nấm mồ, cái hàng trước, cái hàng sau, cùng một hàng dọc… Ngày Mai đậu Tú Tài, anh Tam được tin liền bảo Mai, "Anh sẽ tặng Mai một món quà thật đặc biệt", món quà đặc biệt của anh Tam là chiếc nhẫn… Lần đầu tiên anh làm Mai sợ. Mai yêu anh Tam nhưng không hiểu tình yêu là gì. Mai, đứa con gái biết ý nghĩa của cái chết trước khi biết ý nghĩa của sự sống, biết mọi người đều phải chết trước khi biết mọi người có thể sống, có thể yêu thương nhau. Mai có người yêu trước khi có tình yêu. Bây giờ, những lần đọc tiểu thuyết, đi coi chiếu bóng, thấy người ta yêu nhau, người ta tình tự, vuốt ve, hôn nhau… Mai chưa hề có diễm phúc hưởng chúng, chưa hề có tình yêu đó. Mai có một tình yêu khác, một người yêu khác.

Mai thôi làm việc. Những dòng chữ cuối cùng nàng viết cho tôi trước khi từ biệt, là trên mẩu giấy ghi điện đàm mạch Sài Gòn - Hoa Kỳ: một người lính Mỹ đang nói chuyện với người yêu: "I love you" - "Don't say anything. Let's me think good about you before leaving" (Đừng nói gì hết. Để Mai nghĩ tốt về anh trước khi từ biệt). Tiếng nói người lính đầy những lệ, người yêu của anh đang nói những lời vĩnh biệt…

***

Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết. Những địa danh như Hà Nội, Việt Trì, Sơn Tây, Ba Vì, Yên Bái, Đồn Vàng… chẳng gây ở nơi Mai một xúc động nhỏ nhặt, nhưng đã trở thành một phần của thân thể tôi, và tiết trời giá lạnh đã đốt cháy nén hương làm tất cả sống dậy. Những buổi học trong rừng, trên những căn nhà sàn miền thượng du Bắc Việt, xen lẫn tiếng thầy giáo giảng bài có tiếng chim kêu kỳ lạ, tiếng người hú gọi nhau vang âm khắp thung lũng, ngày nào tản cư rời xóm làng miền quê nội ngoại ven sông Hồng, đi sâu mãi vào vùng núi Tản Viên Ba Vì, đi bộ suốt đêm, một chiếc chiếu gấp đôi choàng qua vai làm ấm ngực, đứa trẻ vừa đi vừa ngủ gật, một lần đi qua một khu rừng thông, tiếng thông reo, và còn reo mãi cho tới bây giờ. Những buổi chiều một mình lang thang trên những ngọn đồi vùng Phú Thọ, những khóm sim mọc hỗn độn trên những ngọn đồi chập chùng chạy dài mãi phía xa, lẫn dần vào bóng chiều đã xẫm, (bây giờ, đôi lần tình cờ đọc câu, "qua những đồi hoa sim, mầu tím hoa sim tím cả những chiều hoang biền biệt", toàn thân bị dĩ vãng ấu thời chiếm đoạt, run đến nổi gai ốc…). Những buổi sáng thơ thẩn trong rừng lần theo một tiếng chim lạ, hoặc loay hoay dò theo một vết nứt tìm giò măng dưới mặt đất… những năm tản cư trở thành những năm du lịch miền núi đồi thượng du Bắc Việt. Những giếng nước do những viên đá sắp xếp, buổi sáng hơi nước bốc lên nghi ngút, nhúng tay sâu, hơi ấm theo bàn tay thấm vào hết người. Mùa hè chợt tới, những dòng suối trong vắt, nước lạnh buốt, những viên sỏi dưới dòng suối long lanh như những viên ngọc, đàn gà rừng mầu sắc rực rỡ bay tán loạn khi thấy bóng người, sườn núi phía trước sương mù che phủ trắng xoá, lấy hai tay để lên miệng làm loa, cất tiếng hú, âm thanh vang rền, đập đi đập lại, một hồi lâu sự yên tĩnh mới trở lại, tuổi thơ của tôi không có gì đáng phàn nàn…

***

Hà Nội những năm đầu bậc trung học. Hình bóng một đứa bé vừa đi vừa cúi nhặt những trái sấu vàng rụng rải rác trên đường từ nhà đến trường. Một bà cô lấy chồng ngoại quốc. Đứa cháu buổi sáng đi học sớm, bà cô ló đầu ra ngoài khung cửa sổ trên tầng lầu, vo tròn tờ giấy bạc ném xuống cùng câu dặn dò thường lệ, "Tan học về đúng giờ, không được la cà dọc đường, nhớ coi chừng xe cộ, không được ra bờ sông tắm…". Càng về già nụ cười của bà cô càng thêm đằm thắm. Đất nước chia đôi, bà theo chồng về Pháp, và ôm chặt đứa cháu vào lòng, mắt đẫm lệ, "Bây giờ cháu phải về quê với họ hàng nhà mình, các chú các bác đều theo kháng chiến, cháu sẽ không phải khổ…". Đứa nhỏ rời Hà Nội, xách chiếc va li nhỏ về tới gần làng, đứng cuối bờ đê, nhìn về phía có hai cây cau cao vút, nhìn thật lâu, khi đêm xuống xóa nhòa cảnh vật, bất giác cất tiếng hú, âm thanh đập xuống mặt sông, phụ thêm tiếng sóng vỗ vào bờ đê làm ù tai, rồi dội đi thật xa, đó là những lời từ biệt cuối cùng.

Hà Nội. Những buổi sáng mùa đông đứng co ro ở một góc đường, miệng mở tròn, nhìn một cách thích thú làn hơi nóng từ trong người tỏa ra như những đợt khói tròn, rồi trở thành trắng xóa. Những buổi tối lén bà cô đi xem phim, một lần trở về muộn, bị mấy đứa trẻ đánh giầy lột hết tiền bạc. Một lần bị Tây say rượu rượt đuổi, tiếng la hét của gã ngoại nhân phảng phất điều chi thật thê lương, ngậm ngùi. Tiếng khóc nức nở của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc. Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ hãi, không phải… thỉnh thoảng trong giấc mơ, nó gặp lại người đàn ông đã chết, cả hai đều không thể quên con phố cũ…

Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội, những lá cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang nghiêm và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn một hạt bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và chút giá lạnh đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường sẽ im lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ quên, trừ một hai cặp tình nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể cho em nghe về một thành phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi bay trong gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm trên cát nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời.

Hà Nội, thành phố có hương thơm và mặt trời ve vuốt, thành phố mà Cẩn nói, được dựng lên cho những nhớ nhung và mơ tưởng của một thời trẻ dại, "con đường Trường Thi, hai hàng me bên đường vào khoảng tháng sáu, tháng bẩy như thế này, lá me bắt đầu rụng để lộ những nhánh cây nhỏ, những đứa trẻ háu ăn đã vô ý tưởng là những quả me, và ngó lên bằng cặp mắt thèm thuồng. Mùa hè vàng nắng không còn, nhưng những ngày cuối mùa nóng, người dân Hà Nội có thói quen trước khi ngủ mở tất cả những cánh cửa sổ để đón gió mát, đột nhiên trong đêm khuya, có những cơn gió lạ từ đâu chợt tới, thổi thốc những chiếc lá khô bay phấp phới, và người lớn vội vàng trở dậy đóng bớt cửa sổ, "đó là những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu mùa thu trở về."

Mùa Thu, những đứa trẻ xâu những đôi guốc, dép vào một mẩu dây, rồi một tay cầm cặp, một tay xách xâu guốc dép, chúng đi thành từng đàn, tranh nhau cười nói, vung tay múa chân, khi đi qua nhà một đứa trong bọn, bọn trẻ đứng từ phía ngoài, lăng xâu guốc dép, ném chiếc cặp thật mạnh vào tận trong nhà, rồi sau đó thảnh thơi, hớn hở chạy theo bè bạn, mùa hè: những xe phun nước chạy chầm chậm, những tia nước bắn tung toé lên mặt đường nóng bỏng, lũ trẻ chạy theo sau ngửa mặt hứng; mùa lạnh: những người cảnh binh mặc áo dạ tím, những đứa trẻ không còn dám tháo bỏ giầy dép ra khỏi chân, sợ những lần vô ý vấp ngã, những ngón chân sẽ tê điếng có khi cả giờ đồng hồ. Hoặc là tôi phải quên, hoặc bắt buộc phải nhớ: sống tức là sống trong nỗi nhớ Hà Nội. Chúng tôi: những đứa trẻ rời bỏ Hà Nội và trở thành những con bệnh, mỗi lần thời tiết thay đổi, trở nên lạnh, hoặc những đêm đi chơi về muộn trong một Sài Gòn đã thuộc về chúng tôi, lúc bấy giờ gió nhiều, những hơi thuốc nhỏ nhoi chẳng đủ ấm, thế là tiếng lá cây xôn xao, không gian, thời gian, cảnh vật… tất cả biến thành những sợi dây trói, kéo lũ chúng tôi trở lại Hà Nội, chúng tôi trở thành những kẻ mộng du, đêm đêm trở dậy đi đi lại lại trong Hà Nội…

Mười một năm đã qua, những đứa trẻ đã lớn, chiến tranh tiếp tục và ngày càng khủng khiếp, ghê rợn, có những đứa trẻ đã chết (đã trở về Hà Nội). Trong tập Notes của Tuấn, xen lẫn những ghi chú về Sartre và Heidegger, Cẩn tình cờ đọc thấy câu: Hà Nội, pole positif de la douleur (Hà Nội: cực dương của nỗi đau): Lãng sống đời khổ hạnh, tập không yêu không ghét đời sống, thật vậy không, hả Lãng: Ta là kẻ đã đạt…" Có phải mày đã đạt, và nhìn bạn bè bằng cặp mắt bao dung, hiền từ pha chút thương hại. Những đứa bạn lúc nào làm ra vẻ sắp sửa ra đi, sắp sửa lên đường, lưng còng xuống vì gánh nặng lịch sử, lịch sử: nơi chốn tự nhiên của sự hung bạo (lieu naturel de la violence). Vưu làm thơ, tôi còn nhớ được hai câu: Xin lấy máu làm dầu soi sáng/Cho con cháu mình soi tỏ mặt nhau. Vưu, kẻ phóng đãng… còn tôi kẻ mơ ước viết một cuốn sách nối liền hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn…

Mai, Mai… để anh kể cho em nghe về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có sương mù…

Mai thôi làm việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu thang, trong khi chờ thang máy, đột nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác sĩ người Pháp chữa trị cho tôi, khi còn nằm trong nhà thương Grall: Như vậy là chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi" (Est-ce que la guerre est finie pour moi").

Tôi chờ đợi khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở trước cổng nhà thương nhìn ra ngoài đời và chiến tranh đã hết.

Nguyễn Quốc Trụ.

Ghi chú: Năm 1965, sau khi quân đội Mỹ đổ bộ xuống bãi biển Đà Nẵng, biệt động thành cho nổ hai trái mìn claymore tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Sài Gòn. Theo tin tức báo chí hồi đó, con số chết và bị thương là trên hai trăm người, trong đó có tác giả truyện ngắn trên đây.

Truyện được viết tại nhà thương Grall, Sài Gòn trong khi chờ đợi, hoặc sống hoặc chết.

Nay đăng lại, như một kỷ niệm những ngày ở Sài Gòn.

(1) Paul Nizan.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
DB Rick Miller thuộc Đảng Cộng Hòa, đại diện khu vực Sugar Land, đã bị phản ứng gay gắt sau khi ông chụp mũ các đối thủ tranh ghế ông chỉ vì họ là người Mỹ gốc Á trong địa hạt đông ngưởi gốc Á.
Ai quyết tâm đi tìm chân lý và hướng thượng cuộc đời trong tinh thần – Tu là cõi phúc – đều hưởng được sự bình an trong tâm hồn, tức là hưởng được hạnh phúc, Thiên đàng, Niết bàn, Cõi phúc ở trần gian
nữ tài tử Julia Roberts và cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama sẽ có chuyến đi đặc biệt thăm Việt Nam trước khi sang Malaysia dự chương trình "Leaders: Asia-Pacific"
ông có tập Thơ Lửa, cùng làm với Đoàn Văn Cừ, gồm những bài thơ đề cao cuộc kháng chiến chống Pháp, do Cơ quan Kháng chiến Liên khu III xuất bản, được in ở Thái Nguyên năm 1948
James Nguyen Fernandes, 43 tuổi, bị buộc tội 6 vụ tấn công, gồm 2 tội tấn công cố ý sát hại, và 6 tội phạm tội liên quan súng, theo hồ sơ tòa án cho biết.
Cục Cảnh sát Hình sự của Bộ Công an mới đây thừa nhận Việt Nam là một “điểm nóng” của nạn buôn người và di cư bất hợp pháp, với lợi nhuận hàng năm lên đến hàng chục tỉ đôla.
Khi chưa thấy ánh mặt trời, Tôi đã cảm nhận được muôn ngàn đau khổ, Của mẹ cha, Của bà con và của muôn triệu người dân gần xa trong nước, Lúc mẹ ôm bụng bầu chạy từ chỗ nầy sang chỗ khác,
Theo bản tin từ đài KUSI, Dân biểu Cộng Hòa Duncan D. Hunter cho biết ông sẽ nhận một tội sử dụng sai trái quỹ vận động khi ra tòa vào hôm Thứ Ba ngày 3 tháng 12/2019 trước Chánh án Thomas J. Whelan.
Mùa cháy rừng hiện nay nêu bật việc cần phải nhanh chóng đạt được các mục tiêu loại bỏ carbon đầy tham vọng của California, và bản báo cáo ‘Lộ Trình 2045’ đặt ra sơ đồ định hướng để đạt được mục tiêu đó
Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm Thứ Hai, 2 tháng 12, lên án các nhà Dân Chủ tại Hạ Viện về việc tổ chức điều trần luận tội trong khi ông đang dự hội nghị thượng đỉnh NATO tại London
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.