Hôm nay,  

Chiều Nay Sài-gòn Đổ Trận Mưa Đầu Mùa… (phần Ii)

04/01/200100:00:00(Xem: 4206)
Ông đã cố gắng "sửa sai" tình trạng đó, và cảm thấy "như chạy theo cơ man con chữ, giống như bầy cừu hoang; một khuôn mặt buồn thảm, với mình, và tức cười, với người khác". Người bạn, Pierre Nora, như nhận ra tình trạng dở khóc dở cười của ông, đã đưa ra lời khuyên: "hãy quên đi những nỗi bực mình và hãy viết một cuốn từ điển cá nhân cho riêng bạn".

Và sau đây là định nghĩa về tiểu thuyết gia, nhà văn:

Tiểu thuyết: Hình thức lớn của thơ xuôi (La grande forme de la prose), tác giả qua những cái tôi - des egos expérimentals - (những nhân vật, personnages) truy xét tới cùng một số đề tài của hiện hữu.

Tiểu thuyết (và thơ). 1857: Năm lớn lao nhất của thế kỷ. Ác Hoa, Les Fleurs du Mal: thơ trữ tình khám phá ra mảnh đất riêng của nó, yếu tính của nó. Bà Bovary: lần đầu tiên, tiểu thuyết sẵn sàng đảm nhận những đòi hỏi của thi ca (toan tính "tìm kiếm vượt lên trên mọi cái đẹp"; sự quan trọng của từng từ đặc thù; giai điệu thê thiết của bản văn; tính quyết đoán của nguyên bản được áp dụng cho từng chi tiết). Từ 1857, lịch sử tiểu thuyết trở thành lịch sử của "tiểu thuyết trở thành thi ca" (roman devenu poésie) (10). Nhưng đảm nhận những đòi hỏi của thi ca không có nghĩa là trữ tình hóa (lyriser) tiểu thuyết (từ chối sự diễu cợt, tính hài hước thiết yếu của nó, quay lưng với thế giới bên ngoài, biến tiểu thuyết thành bản thú tội cá nhân, tô điểm vẽ vời quá cho nó). Những tiểu thuyết gia lớn trong số những "tiểu thuyết gia trở thành nhà thơ" đều chống-trữ tình một cách thật dũng mãnh: Flaubert, Joyce, Kafka, Gombrowicz. Tiểu thuyết = thơ chống-trữ tình (antilyrique).

Tiểu thuyết (Âu châu): Lịch sử (sự tiến triển đồng nhất và liên tục) của tiểu thuyết (của tất cả cái mà người ta gọi là tiểu thuyết) không có. Chỉ có "những" lịch sử của tiểu thuyết: của tiểu thuyết Trung-hoa, Hy-La, Nhật-bản, Trung-cổ, vân vân... Tiểu thuyết mà tôi gọi là Âu-châu thành lập vào buổi trưa của Âu-châu, lúc rạng đông của những Thời hiện đại, tiêu biểu một thực thể nội tại mang tính lịch sử, và sau đó lan rộng ra quá khỏi Âu châu (tại Mỹ chẳng hạn). Do giầu có về hình thức, do chú trọng đến tiến triển, vai trò xã hội, tiểu thuyết Âu-châu "không giống ai", nếu phải so với bất cứ một nền văn minh nào khác.

Tiểu thuyết gia (và nhà văn): Tôi đọc lại tiểu luận ngắn của Sartre " Viết là gì"". Không một lần, ông ta dùng những từ tiểu thuyết, tiểu thuyết gia. Ông chỉ nói về nhà văn của thơ xuôi. Một phân biệt đúng:

Nhà văn có những tư tưởng, ý nghĩ nguyên thuỷ (originales), và một tiếng nói (une voix) không thể bắt chước. Ông ta có thể sử dụng bất cứ hình thức nào (kể cả tiểu thuyết) và tất cả những gì ông viết ra - mang dấu vết tư tưởng, tiếng nói đó, là thuộc tác phẩm của ông. Rousseau, Goethe, Chateaubriand, Gide, Camus, Malraux.

Tiểu thuyết gia không cần lắm đến cái gọi là tư tưởng. Ông ta là một kẻ khám phá, trong khi mầy mò, cố phát hiện một sắc thái xa lạ, chưa biết (inconnu), của hiện hữu. Ông ta không bị hớp hồn bởi tiếng nói của mình, nhưng mà bởi một hình thức mà ông ta theo đuổi, và chỉ những hình thức thỏa đáng đòi hỏi của cơn mộng (của ông) mới thuộc về tác phẩm. Fielding, Sterne, Flaubert, Proust, Faulkner, Céline.

Tiểu thuyết gia (và cuộc đời của ông ta): "Nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tin rằng ông ta đã không sống." (L'artiste doit faire croire à la postérité qu'il n'a pas vécu), Flaubert nói. Maupassant ngăn cấm mọi chân dung của ông (có ở) trong loại sách về những nhà văn nổi tiếng: "Cuộc sống riêng tư của một con người, và bộ mặt của người đó không thuộc về công chúng". Hermann Broch, về ông, về Musil, và về Kafka: "Cả ba chúng tôi đều không có tiểu sử thực sự." Điều này không có nghĩa cuộc đời của họ nghèo nàn những biến động, nhưng nó không cần phân biệt, công bố, để trở thành tiểu sử (bio-graphie). Người ta hỏi Karel Capek tại sao không làm thơ, ông trả lời: "Bởi vì tôi ghét nói về chính tôi". Nét chính yếu cho thấy, một tiểu thuyết gia: một người không thích nói về mình. "Tôi ghét dí mũi vào cuộc đời quí giá của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng bao giờ cái gọi là tiểu sử lấy ra được cái gì từ đời tư của tôi.", Nabokov nói. Italo Calvino cảnh cáo: "Đừng nói cho bất cứ ai, dù một từ thực, về cuộc đời riêng của mình." Và Faulkner mong muốn "chỉ là một con người bị huỷ, được lịch sử xoá sổ (annulé, supprimé par l'histoire), chẳng để lại một dấu vết, ngoài những cuốn sách được in ra (hãy gạch đít: sách, được in ra, livres, imprimés, như vậy là không có những bản thảo dở dang, những thư từ, những nhật ký). Theo một ngụ ngôn nổi tiếng, tiểu thuyết gia phá căn nhà đời mình (la maison de sa vie) để, với những viên gạch, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu thuyết của ông. Từ đó suy ra: những cuốn tiểu sử phá huỷ những gì tiểu thuyết gia làm được. Việc làm của nó (tiểu sử) hoàn toàn tiêu cực, nhìn theo quan điểm nghệ thuật, vì chẳng chiếu sáng giá trị cũng như ý nghĩa một cuốn tiểu thuyết; may ra nó "chỉ ra" (identifier) được mấy viên gạch. Vào lúc mà Kafka được quan tâm tới, hơn (nhân vật) Joseph K., khi đó tiến trình của hậu-cái chết (mort posthume) của Kafka bắt đầu (11).

Tôi trích dịch một số định nghĩa của Kundera, là để chúng ta cùng dựa vào đó, đi tìm một tác phẩm lớn của Việt Nam, lấy trường hợp Thanh Tâm Tuyền làm một thí dụ. Thứ nhất: ông là một nhà thơ viết văn, viết tạp bút... Thứ nhì: đề tài "đắc ý nhất" của ông, theo tôi: tình yêu.
Nếu trí nhớ của tôi không phản bội, Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Huỳnh Phan Anh viết lời bạt Mấy ghi nhận về Bếp Lửa, cho ấn bản chung quyết. Tôi nghĩ, ông muốn chủ nhà có vài lời về "the" man who came in from the cold. (12).

(Đó là thời gian, Thanh Tâm Tuyền cũng lây cái bệnh của đám "tiểu thuyết mới" chúng tôi; ngồi quán Cái Chùa mỗi sáng, trước khi ghé sở).

Chữ viết không là một ý niệm trừu tượng, nhưng không thể tách lìa cuốn sách vàø ở bên trong mối tương quan có thực (vécu), giữa những con người ở trên đời, cái đó gọi là ý thức hệ, theo Althusser. Tương quan giữa người và chữ luôn luôn là xung đột, nếu không chữ trùng với ý thức hệ. Khi thiếu vắng xung đột, khi đó có văn chương hạ cấp (sous-littérature) (13).

Tôi thực sự không tin, Thanh Tâm Tuyền có bạn, như một người hiểu ông, từ nhóm Sáng Tạo. Ông trẻ quá so với tất cả. Tây-phương quá so với tất cả. Trí thức quá, vẫn so với tất cả. Với công chúng thưởng ngoạn, Mai Thảo là người "đại diện", nhưng thật ra tinh thần "xung đột" của nhóm Sáng Tạo, phần lớn nếu không là tất cả, ở Thanh Tâm Tuyền. Và nó mang "khí hậu" miền Bắc. (Làm thế nào ở giữa một xã hội hư hỏng như thế này, bị tước đoạt hết khí giới, bị ném vào vũng bùn... Bỏ ra ngoài cũng là một thứ đánh đĩ, đánh đĩ tinh thần mình... Bếp Lửa). Sự xung đột (khí hậu) đó đưa đến chủ nghĩa Cộng-sản, như "giấc mơ đầu tiên và cuối cùng" của một miền đất. Đây cũng còn là thế giới tiểu thuyết tiền chiến, ở những Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ trọng Phụng... Một cách nào đó, nó còn tiên đoán cuộc tù dòng dã của một Nguyễn Chí Thiện, cuộc bỏ chạy "tán loạn" của những Phạm Thị Hoài, sự xuất hiện "mảng" văn chương "Âu-châu" với những người viết như Lê Minh Hà, cùng một số khác trên những tạp chí văn học tại khu vực này như Gió Đông...)

Tiểu thuyết là hình thức nam tính chín mùi; tác giả của nó không còn có thể tin tưởng, bằng niềm tin rạng ngời vốn là niềm tin của mọi thi ca, rằng số mệnh (destin) và tình cảm (sentiment) tuy hai từ mà là một sự vật, cùng một ý niệm độc nhất... từ đó mọc rễ ở trong tiểu thuyết gia: nhu cầu thách đố, đối lập với cuộc đời, một cách đau thương tức tưởi (14): đây là không khí Bếp Lửa, những ngày 1954, trong cơn hấp hối của một thành phố. Lạ một điều, như một nhà tiên tri, Thanh Tâm Tuyền mường tượng ra, tiếng hát (của Thanh), và bài hát nàng ưa thích (Trở về mái nhà. Xưa) là mặc khải, là cứu rỗi. Là hồi nhớ.

Bếp Lửa là một cuốn tiểu thuyết "hỏng", theo như định nghĩa của Kundera ở trên. Tác giả của nó muốn nhiều quá. Hơn tất cả, muốn làm một nhà văn. Muốn, tiểu thuyết=tổng số những tri thức của cả một thời đại.

Cuối tháng ba bước sang tháng tư, trận chiến bùng nổ qui mô khốc liệt tại các vùng giới tuyến. Quảng Trị mất, Kontum, Bình Long bị uy hiếp. Đầu tháng năm ấy hòa đàm Ba Lê lại đình hoãn vô hạn định. Hoa Kỳ tái oanh tạc miền Bắc, dội bom Hà Nội, Hải Phòng, thả mìn phong tỏa các hải cảng Bắc Việt... (Một chủ nhật khác).

Trong không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành phố cao rực rỡ rét mướt, là câu chuyện tình của Kiệt. Tình đắm say, tình thảng thốt. Tình đầu và tình cuối. Tình sống và tình chết. Thơ mộng và tàn ác như rừng rú, núi non.
(Lời giới thiệu trang bìa Một chủ nhật khác, cơ sở Văn tái bản, Hoa Kỳ, 1983).

Kiệt và Thùy gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về làm gì" Làm gì ở đấy" Em nhìn chung quanh em xem. Sang đây với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao"

Kiệt nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.
Họ không nhận ra nhau.

Cuốn tiểu thuyết mở ra bằng không khí cao nguyên, bằng một đám cháy rừng:
Kiệt đứng như trời trồng.
Chàng thật cô đơn.

Kiệt sống lại đêm tháng sáu Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh lẽo với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi. Người ta kéo ra đồng, ăn uống, ca hát, khiêu vũ ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối lửa đỏ ối. Năm ấy Thùy đã tốt nghiệp... cả hai người đều còn trẻ... họ nằm bên đống rơm, ngây ngất trước khối lửa lạ lùng... đó là đêm tân hôn:
Flamme seule, je suis seul (15).
Đêm nay, chàng sống lại nỗi cô đơn, trong cảnh trơ trọi.

Còn Thùy" Dường như nàng đã quên bặt khối lửa đêm ấy, hoặc nàng chỉ nhìn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký ức...

Kiệt bị gọi vào Thủ Đức. Ra trường về quân nhu. Chàng đã có lần soay sở để được đi tu nghiệp - như chuyên viên kinh tế tại sở cũ - nhưng phút cuối, khi được phép rời đất nước, chàng đổi ý.

Rồi Đà Lạt, và Oanh, và Ly.

Kiệt không ngờ tên thật của Ly là Hiền. Chàng quen gọi nàng là Ly hoặc Ly Ly - Hello - hoặc những lúc đùa nghịch gọi là Ly Ty, Vy Ty, Ty Ty và đôi khi đùa nhả gọi là Ky Ky.
Và Tình: Rực rỡ, như khối lửa định mệnh, ở chốn lưu đầy (thiên đàng) đã mất.
Tình đầu, có lẽ là Hiền:

Hồi ấy khi không Kiệt thấy bóng cảnh sát là sợ rúm người. Nguyên nhân có lẽ vì rượu. Suốt một năm sau ngày mẹ chết, Kiệt bén mùi rượu đêm nào cũng la cà bét nhè rồi về đập cửa phòng Tân. Ly mỗi dịp nghỉ từ Luân Đôn sang chơi với ông anh đều phải mở cửa cho chàng...
Chưa từng bao giờ Kiệt nói yêu Ly, chàng không nghĩ tới. Nhưng một hôm say mứa được Ly săn sóc, chàng đã cầm tay Ly bảo: Em giống như mẹ anh, anh thề sẽ lấy em. Rồi chàng khóc rưng rức. Ngày hôm sau, mặc dù gần Giáng Sinh, Ly bỏ về Luân Đôn không báo cho Tân hay. Kiệt đã viết thư xin lỗi và nhận được câu trả lời: Em cũng thề không bao giờ làm vợ một kẻ say sưa (16).

Đà Lạt.
"Tại sao ông lên trên này""
"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh, ông biết không" Ông ta mắc chứng kỳ quái..."
"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ...".

Ngoài những giờ trong quân trường, Kiệt phụ trách một môn học tại viện Đại Học. Oanh là một sinh viên trong lớp.

Sinh viên tiếp tục ra khỏi giảng đường. Một cô bé thường ngồi ở hàng ghế sau tiến trên lối giữa, gương mặt ngỏ ý muốn gặp chàng. Kiệt rời khỏi bục. Rồi chàng cùng bước song song với cô ra cửa.

-Em muốn được hỏi thầy vài điều..
-Thầy cho gặp riêng...
-Em xin lại thăm thầy ở nhà...

"Anh có thật" Ngày chủ nhật kia có thật" Ngôi chùa lộng gió có thật" Ngôi nhà trong đêm thơ mộng khủng khiếp nhớ đời có thật" Em hỏi hoài... Những tiếng nổ ở phi trường buổi sáng em đi thì chắc chắn có thật. Chúng nổ inh trong tai em, gây rung chuyển hết thẩy. Những nụ hôn chia biệt cũng có thật, còn hằn rát bên má em, không biết bao giờ phai...

Chiều nay Saigon đổ trận mưa đầu mùa. Trên ấy mưa chưa" Anh vẫn ngồi quán cà phê buổi chiều" Anh có lên uống rượu ở P." Anh có trở lại quán S., với ai lần nào không" Sắp đến kỳ thi. Năm nay em không có mặt để nhìn trộm anh đi đi lại lại trong phòng, mặc quân phục đeo súng một cách kỳ cục. Anh có đội thêm nón sắt không" Năm đầu tiên em gọi anh là con Gấu. Hỗn như Gấu, đối với nữ sinh viên. Em có ngờ đâu anh là Yêu Râu Xanh...

-Anh giống Yêu râu Xanh thiệt.
-Rốt cuộc Yêu Râu Xanh thất bại.
-Anh có biết tại sao em đến tìm anh không"

Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.
-Em tìm để từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn...

Kiệt lặng người.... Oanh cúi mặt như người phạm lỗi...

-Về già nghĩ đến những lúc này mình có kỷ niệm đẹp biết là chừng nào..
-Em nghĩ thiệt giỏi. Kiệt chua chát, ngấm ngầm, cay đắng...
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để cho người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận giữ - Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường hết, dễ sống...

Kiệt lầm bầm, đều đặn. Chàng nói với Oanh nhưng dường như chàng cũng còn nói với bóng hình khác không phải nàng. Rồi chàng bỗng hát nho nhỏ: Trời đêm xưa gió lộng gọi mùa sang...

Oanh mường tượng những ngày rét mướt sắp tới ở nơi Kiệt cũng như nơi nàng đến. Nàng nghe tiếng gió hú gào qua đồi núi, trong các thung lũng, lòng chảo. Khắp một vùng run rẩy trong hơi giá lạnh của những trận mưa dầm lạnh lẽo.

Nàng như hiểu thấu lòng Kiệt nhưng rồi nàng chẳng hiểu được gì.
-Em có thể đi một mình.

Người bị xe tuần tiễu bắn hồi ba giờ sáng ở rừng thông bên kia đường ra sân bắn là Kiệt. Tại sao trung uý Kiệt lại lần mò ở đấy" Ông ta bệnh nằm cả tháng nay bên tiểu khu mà.

Trời đêm xưa gió lộng gọi mùa sang.
Rượu cạn ly uống say tình còn giá
Lá trên cành một chiếc lá bay ngang.

Kiệt không hát. Chàng thủ thỉ đọc. Oanh lạnh mình.
-Anh nhớ trật rồi. Không đúng như thế. Nhưng rồi sao"
-Anh ngã xuống như một chiếc lá. Anh chết vì những câu hát vô tình. Thật thế. Giờ này anh mới nghĩ ra. Trong khi nằm nhà thương, anh nghe hoài âm vang rền lộng lúc ấy. Anh ngã xuống rồi tiếng hát mới bay tới hay anh nghe xong mới ngã, anh chẳng rõ... Điều bí ẩn là giọng hát, không phải cơn gió. Gió đưa tiếng hát bay. Điều bí ẩn của Trương Chi là ở giọng hát của anh. Chỉ có vậy...

Oanh vụt hiểu: Bắt đầu không phải như thế, đấy là giới hạn của nàng.
-Anh đã nói điều bí ẩn chính là tiếng hát. Mà tiếng hát có gì bí ẩn. Nó cất lên, ngân nga rồi tắt..."

Nguyễn Quốc Trụ

Chú thích:
1. Tác giả Racine (Jean, 1639-99), nhà viết kịch người Pháp. Hầu hết những bi kịch của ông, nhân vật là nữ, như Andromaque (1667), Phèdre (1677).
2. Bản chuyển ngữ đã đăng trên VHNT E-Magazine, và trên Hợp Lưu, số tháng 4&5, 1999.
3. Một số dữ kiện lấy từ bài viết Children's books come of age, tác giả Iglesias Kuntz, trên Le Courrier de l' UNESCO.
4. Đã được Phan Lệ Thanh chuyển ngữ.
5. To come into the world was to come into torture and death. G. Steiner, Absolute Tragedy.
6. Khi anh bỏ chạy biến động, chúng sẽ không bao giờ tha thứ cho anh, và khi anh trở về, chẳng ai mất công hiểu anh. (You are running away from events and these events will never forgive you, when you return you will not be unsderstood): Câu nói của viên bộ trưởng Văn hóa Nga, với nhà soạn nhạc lừng danh Sergei Prokofiev khi ông này từ nước ngoài trở về (1927). Cuộc chiến phải chấp nhận, thực vậy không..."
7. Nếu trí nhớ của người viết không lầm lẫn, bài điểm sách trên nhật báo Tự Do (Sài-gòn), là của Hà Thượng Nhân. Người điểm sách chỉ trích một vài chi tiết trong truyện, như đoạn tả cô con gái (Thịnh), trong lúc hạ huyệt ông Chính, đã "lăn lộn trên cỏ như một con chó điên, tóc tai rũ rượi, tay chân cào cấu". Hà Thượng Nhân (và cùng với ông, tờ Tự Do) đã đả kích thơ tự do thậm tệ, khi nó vừa mới xuất hiện.
8. Nguyễn Đức Quỳnh. Bút hiệu Hà Việt Phương. Sinh ngày 23-11 năm Kỷ Dậu (1909) tạïi Hưng Yên. Di cư vào Nam trước hiệp định Genève. Trông coi tòa soạn Đời Mới (của Trần Văn Ân). Tổ chức những buổi họp "Đàm Trường Viễn Kiến". Đã nổi tiếng từ thời tiền chiến. Không có tác phẩm xuất bản sau 1954. Qua đời tại Sài-gòn ngày 21-6-1974. (Võ Phiến, Văn Học Tổng Quan, mục Tác giả và Tác phẩm). Theo như một người có quen biết ông, bút hiệu Hà Việt Phương có nghĩa là "chạy phương nào nữa đây", diễn tả tâm trạng rời bỏ đất Bắc vào Nam. "Ai có qua cầu" - chủ nghĩa CS - mới hiểu được, và có thể "giải" được (bài toán Việt Nam"), theo kiểu "cởi chuông phải là người buộc chuông". Đàm trường thay cho Đấu trường, Viễn kiến thay vì Cận kiến...
9. Bài phỏng vấn đăng trong La Part d'Exil (nhà xb Đại học Provence Pháp, 1995); người viết đã chuyển ngữ, từ bản tiếng Pháp của Lê Hữu Khóa, in trong Lần Cuối, Sài-gòn (nhà xb Văn Mới, Hoa Kỳ, 1998).
10. Ở đây, xin đưa thêm nhận định của Phạm Thị Hoài, trong bài phỏng vấn do Phạm Việt Cường ghi trên Hợp Lưu số báo đã dẫn (... Chị có nhận thấy văn chương của chị có nhiều chất thơ không"): Tiếng Việt cho tới cuối thế kỷ mười chín là ngôn ngữ của thơ và văn vần, nó có ít kinh nghiệm về văn xuôi... Chất thơ, như anh gọi, trong văn của tôi, không hẳn là công lao của cá nhân tôi, có thể coi đó là di sản của lịch sử văn học Việt Nam...
11. Nghệ thuật tiểu thuyết, L'art du roman. Milan Kundera (nhà xb Gallimard, tủ sách Folio, 1995).
12. Mô phỏng tên tác phẩm của John Le Carré: The Spy who came in from the cold (Gián điệp từ miền lạnh).
13. Henri Meschonic, Thi tính, Pour la Poétique I, essai (nhà xb Gallimard, tủ sách Chemin, 1970).
14. Le roman est la forme de la vérilité murie; son auteur ne peut plus croire... Georges Lukacs, Lý thuyết tiểu thuyết, La Théorie du roman, trang 81, (nhà xb Gonthier, tủ sách Méditations, 1963, ấn bản tiếng Pháp).
15. Ngọn lửa cô đơn, tôi cô đơn.
16. Người mẹ ở đây, chắc vẫn chỉ là một biểu tượng. Kiệt sống ở ngoại quốc trên mười năm. Mười tám tuổi đậu tú tài, ông bố vận động... ông không muốn con trai ông đi lính... Là con một Kiệt chỉ sống quẩn bên gấu mẹ... việc học hành tuân theo sự chỉ dẫn của ông bố... nếu được lựa chọn chắc Kiệt đã học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những năm tản cư chạy loạn chàng thích đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê suốt thời thơ ấu mà chàng phải giấu ông bố.... Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng chỉ biết sau đó. Ngày ấy nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình đến quán rượu uống say bí tỉ, khóc mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo toan, tính toán quá sáng suốt lạnh lùng của ông bố. Đáng lẽ Kiệt phải tức tốc bay về dù đã trễ muộn. Sau khi mẹ chết, Kiệt quyết định vĩnh viễn không về nước. Thuỳ làm chàng thay đổi quyết định.

Bếp Lửa, với số trang trên trăm, chỉ là một truyện vừa (une nouvelle), chưa được coi là một cuốn tiểu thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hoan hỷ chào nhau cầu xưa quá bước Dặm đường im kẽ tóc với chân tơ Tan hợp cười òa. Kia vòm mây trắng Và bắt đầu. Và chấm hết. Sau xưa… . 4.2021 (Gửi hương linh bạn hiền Nguyễn Lương Vỵ, lễ 49 ngày)
Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng - chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến - Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường
Lời dịch giả: Đây là bức tâm thư của cựu tổng thống George W. Bush gởi người dân Mỹ trong lúc cả nước đang sôi sục sau cái chết của George Floyd.
NYC với mình như căn nhà thứ hai, thế mà đã hơn một năm rồi mới lên lại. Thường thì hay lên mùa Giáng Sinh, hay Tháng Hai mùa đông để coi tuyết ở Central Park, và tháng Mười Một để coi lá vàng. Lần nầy chỉ mới tháng ba, nhưng có lý do
Xúc động với kỷ niệm. Thơ và nhạc đã nâng cảm xúc về những cái đẹp mong manh trong đời... Đêm Nhạc Người Về Như Bụi, và buổi ra mắt Tuyển Tập 39 Văn Nghệ Sĩ Tưởng Nhớ Du Tử Lê đã hoàn mãn hôm Thứ Ba 14/1/2019.
chiều rớt/xanh/ lưỡi dao, tôi khứng! chờ ... mưa tới. Hai câu cuối trong bài “chiều rớt/xanh/lưỡi dao” anh viết cuối tháng 9/2019 như một lời giã biệt. Và, cơn mưa chiều 7.10.2019 đã tới, anh thay áo mới chân bước thảnh thơi trở về quê cũ. Xin từ biệt anh: Du Tử Lê!
trong nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (chỉ từ 10% đến 40%) . Chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam không cao
Theo bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2018, Việt Nam đứng hạng 117/ 180 với mức điểm 33/100. Bao giờ mà chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại thì “nạn nhũng nhiễu lạm thu” sẽ vẫn còn được bao che và dung dưỡng khắp nơi, chứ chả riêng chi ở Bộ Ngoại Giao
Chính phủ Hoa Kỳ đã hứa tài trợ 300 triệu đô la để làm sạch môi trường bị nhiễm chất độc da cam của phi trường Biên Hòa và hôm 5 tháng 12 là bắt đầu thực hiện việc tẩy rừa tại khu vực này, theo bản tin hôm 6 tháng 12 của báo Tuổi Trẻ Online cho biết như sau.
Hơn 1.000 người có thể đã bị giết bởi lực lượng an ninh ở Iran trong các cuộc biểu tình gần đây, theo một quan chức cấp cao của bộ ngoại giao cho biết hôm Thứ Năm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.