Hôm nay,  

Một Chuyến Đi - Phần I

03/01/200100:00:00(Xem: 4130)
'Đúng ra chúng tôi đã có dịp quen nhau từ lâu,
từ những ngày...'

Lần đầu gặp, nghe ông kể đã từng tới "đỉnh cồn", Đài Liên Lạc Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, cũng là nơi các phóng viên ngoại quốc tới đọc tin về trụ sở chính của họ; ông lúc đó làm cho hãng tin nước ngoài, còn tôi, một chuyên viên kỹ thuật của Đài:
-Như vậy là ông làm việc ở đó" Sao tôi không gặp nhỉ" Tôi vẫn còn nhớ những lần tới, thang máy thường là hỏng, cứ phải lội bộ. Đúng là còn xa hơn cả London, cái đỉnh cồn của ông! Đọc ông, tôi cứ ngờ ngợ, như thế là chúng ta đã san sẻ cùng một nỗi bực mình, cùng những cơn thở dốc!

Nơi tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building..., tôi đã viết về nơi chốn đó, nhưng... cái thang máy, ờ nhỉ, tôi còn nợ nó quá nhiều kỷ niệm. Tôi bật cười thầm, như nhìn thấy mấy người phóng viên đang ì ạch leo lên mấy tầng thang lầu. Nói ì ạch, kể hơi quá - cho thỏa nỗi bực bội, ghen tức - bởi vì họ leo nhanh lắm, để tranh đưa tin, trước đồng nghiệp! Thế ra là trong số đó, có cả cái ông bạn mới quen này, tóc bạc trắng như những sợi cước, chiếc tẩu thuốc luôn luôn nhả khói, mớ tóc bồng bềnh như bờm sư tử, chẳng thấy một chút già nua nào, trong bất cứ một cử chỉ. Thú nhất, là cách ông nâng ly...Tôi có cảm tưởng, bây giờ ông bạn mới có thì giờ thưởng thức cuộc đời, thưởng thức văn chương bằng cách bịa đặt ra nó, bởi vì cả một thời trẻ: còn lo chạy trước đồng nghiệp!

'... cay nghiệt đó.'

Cay nghiệt, chắc không đâu, với ông. Làm hãng tin ngoại, bất cứ lúc nào ông cũng có thể nhẩy ra khỏi lò lửa, tôi đã từng thèm khát một chân phóng viên như vậy, thèm làm một người gia nhập cuộc chiến, không phải vì bắt buộc, mà là tự nguyện. Chết là do mình chọn.

Còn nhiều "đặc ân" khác nữa: những đặc ân về thông tin, biết những điều có khi chỉ mình mình biết. Đọc ông, tôi có cảm tưởng, ông viết cho một người đọc không còn nữa, cho phần người ở trong ông nay cũng không còn nữa: 'Đừng hỏi chuông đổ vì ai' (1)... tôi như nhìn ra con-người-nhỏ-nhen-tôi. Nhỏ nhen, vì nghĩ những ký giả chân trong chân ngoài đối với cuộc chiến như ông "sướng hơn, may mắn hơn" tụi tôi; nếu muốn, họ có thể phủi bụi, bỏ đi bất cứ lúc nào. Nhìn ông tôi hiểu, đừng hỏi...

Bởi vì người chết không bắt buộc chỉ là người đã chết, mà còn có kẻ sống sót, nhất là những người "biết quá nhiều"...

Gần mực thì đen, tôi còn nghĩ, với những đặc quyền thông tin như vậy, người phóng viên thật dễ trở thành điệp viên. Không chỉ phóng viên, mà luôn cả nhà văn - như một người được thông tri đầy đủ những dữ kiện của thời đại. Graham Greene, George Orwell đều làm việc cho phản gián Anh. Orwell tin ông đúng, cả trong việc dò xét những đồng nghiệp. Ở Việt Nam, là trường hợp Phạm Xuân Ẩn. Không hiểu hồi đó, ông bạn của chúng ta có biết vụ CIA "giả đò" làm Mặt Trận Giải Phóng thả con vịt cồ, sẽ họp báo ở trong chiến khu, tuyên bố ly khai với Miền Bắc. Hầu hết các báo chí phương Tây đều mắc hỡm, trừ Mỹ. Họ không, có thể do CIA vờ đi, không gửi thiệp mời, hoặc Phạm Xuân Ẩn, lúc đó làm cho tờ Time, báo động ông chủ chi địa, và cũng muốn lập công. Phạm Xuân Ẩn, sau được Nguyễn Khải hư cấu thành nhân vật Quân, trong Thời Gian Của Người. Lạ một điều, không phải kết cục của Quân - sau khi công thành danh toại, nghe nói bị thất sủng, dù đã được Đảng cho đi "thiền" một thời gian, để dứt nọc độc khi nương náu nơi cửa Thời (Time) - nhưng chuyện Mặt Trận Giải Phóng ly khai với miền Bắc đã thực sự xẩy ra, qua sự kiện câu lạc bộ kháng chiến của đám CS miệt vườn Miền Nam.

Nhân lúc vui câu chuyện, bữa gặp nhau ở nhà ông Tôn, tôi chêm vô: "thằng này" cũng đã từng biết trước một cuộc đảo chính sắp sửa xẩy ra...
-Ông nói sao, ông biết trước có đảo chính"
-Chỉ mỗi một lần. Do tình cờ...

Thời gian dân Sài-gòn thay vì đi ciné không được, do giới nghiêm, nên đành ở nhà chờ coi đảo chính. Bữa đó phiên trực, nửa đêm không biết làm gì, tò mò theo dõi hai anh chàng Mẽo nói chuyện qua cái máy viễn ấn:
-Sài-gòn đảo chính chưa"
-Chưa thấy gì hết.
-Sao lại chưa, bên này đã được thông báo rồi"

Chỉ một lát sau, "sự thực" xẩy ra.

Phải nói thêm: phần vụ của đám chuyên viên Đài, là kiểm tra mạch viễn ấn, vô tuyến điện thoại, mỗi khi có sự cố; không liên can gì đến chuyện kiểm duyệt báo chí.

Trong bữa tiệc ở nhà ông Tôn, bào đệ ông bạn chúng mình đang nhắc tới, tôi là một kẻ "ngoại đạo", một "intruder" (2), một kẻ xâm nhập lén lút, trong cái "Thi Văn Đoàn" này. Họ coi tờ báo (3) như là một cái cớ, cho những cuộc vui chơi của riêng họ, vào những ngày cuối tuần.

Tôi dự cuộc họp, thứ bẩy tuần trước tại tư gia ông bạn văn có nhã ý cho tụi này tá túc. Một dịp giới thiệu khách phương xa, sẵn cuối tuần gặp mặt theo thông lệ. Bữa đó thiếu mấy bậc trưởng thượng, nhưng thêm tôi, và cuốn sách vừa xuất bản. Khi tặng sách, họ đều giúi vào tay tôi một tờ giấy bạc; riêng chủ nhà, là một bản thường nhưng đặc biệt, vì rất phong nhã, và cũng rất có ý nghĩa, cả về tình lẫn tiền.

Trong khi vui câu chuyện, nghe nói tôi còn ở thêm vài ngày, ông Tôn mời, tuần tới lên nhà ông. A, thì ra luân phiên! Tôi buồn cười, tự dưng nhớ đến một ông chú, chú Năm của tôi.

Dòng họ Nguyễn tôi có mấy anh em: Bác Cả Hoán, thân sinh chị Giậu, phu nhân ký giả Hiếu Chân. Tôi thuộc dòng ông Ba. Bà cô, cô Dung, người nuôi nấng tôi thời gian học Hà-nội, là con ông Tư. Bà lấy chồng Pháp, một ông kỹ sư sở Hỏa-xa Đông-dương. Ông Năm, một người nổi tiếng "ăn học, ăn chơi", tứ đổ tường gì cũng biết. Nghe kể lại, ông có một bảng danh sách những bạn bè, và cứ theo đó, đến hẹn lại lên, tùy theo gia tư nạn chủ mà ăn vạ, vừa cơm trắng vừa cơm đen. Không ngờ "quí tướng" của ông "ứng" luôn vào thằng cháu: suốt thời gian ở Cali, tôi đóng vai thực khách, hết ông bạn này mời tới ông bạn khác... có ông, như Đỗ còn bực bội, vì đã mời mà không chịu tới, để cho ông và người bạn từ Paris qua chờ mấy tiếng đồng hồ!
Nhân đây, cũng xin ông bạn Đỗ tha lỗi, về bữa tụi này hụt ăn, và về cái trí nhớ tồi tệ của tôi. Tôi cứ nghĩ, tôi quen ông những ngày ở Sài-gòn, nhưng thực ra là từ thuở học Hà-nội. Sau chuyến đi, ông có liên lạc: đọc ông nhớ Hà-nội quá, thêm chi tiết "động trời" về "văn nghiệp" của tôi: đã từng ở trong thi văn đoàn Trường Bác Cổ (4)! Ông kể một vài tên; ngoài ông ra, tôi biết thêm một, cùng học Nguyễn Trãi. Cùng lớp.

Về ông bạn cùng lớp này, tôi có một kỷ niệm thật dễ thương. Số là, ông giáo dậy Anh văn Nguyễn Trãi lúc đó tên là Xuân, dậy đám Đệ Lục chúng tôi, rất vui tính, và cũng rất nghiêm. Một bữa tới lớp, thấy trên bảng nguệch ngoạc vài nét chân dung, với cái tên ở dưới: Mr. Spring, thầy giận dữ truy cho ra thủ phạm. Tính bắt phạt, anh học trò láu lỉnh cãi: Thưa thầy, Spring đâu phải tên thầy! Ông bật cười gật gù, đúng rồi, tên thầy là Xuân, đâu phải Spring. Kỷ niệm dễ thương kia, liên quan đến người bạn cùng lớp. Bữa đó, thầy Xuân gọi anh lên trả bài, hóa ra anh chẳng hiểu tại sao Spring không phải tên thầy, đại khái như vậy. Thầy Xuân bữa đó, thay bài giảng Anh văn sống động, L'anglais vivant, bằng bài học về sự quan trọng của ngoại ngữ (biết thêm một ngoại ngữ là một người biến thành hai người). Giờ Anh văn sau, ông xin lỗi người học trò: Lần trước, tôi có lớn tiếng về anh bạn, thực không đúng, vì sau đó, khi ra về, tôi được anh tặng một tập thơ, anh là tác giả. Thầy nói tiếp, không có vẻ chi chế diễu, theo đó, khi người ta có thiên tài về ngôn ngữ mẹ đẻ, ngoại ngữ có khi không còn cần thiết. Thầy Xuân tiên đoán dúng, về người học trò của mình, sau là một thi sĩ nổi tiếng. Tiếng Anh bây giờ nhà thơ chắc đã rành rẽ. Học ngoại ngữ lúc nào mà chẳng được. Nhưng thơ, đâu bạ ai, bạ lúc nào cũng học được"

Giáo sư Anh văn năm học Đệ Ngũ sau đó, là thầy Kỳ, luôn luôn dậy cuốn Nàng nhún mình để chinh phục (5). Tôi có một kỷ niệm về thầy Kỳ: sau khi CS tiếp thu Hà-nội, những ngày đầu, hai thầy trò vẫn tiếp tục tới trường. Một bữa thầy và tôi cùng đi muộn, chưa đầy năm phút, ông cán bộ gác cổng đã không cho vào lớp, sau đó thầy còn bị làm tờ kiểm điểm. Đây là một lý do, trong nhiều lý do, khiến thằng học trò của ông từ biệt Nguyễn Trãi, từ biệt Hà-nội.

Bữa tại nhà ông Tôn, có thêm một vài người, trong số đó là một vị nữ lưu, bạn đồng nghiệp với mấy ông bạn của tôi còn ở lại Sài-gòn. Bà biết Huỳnh Phan Anh, nhưng tỏ ra ngạc nhiên khi nghe tôi nói về Nguyễn Nhật Duật, và cái lần anh đụng độ với một thi sĩ nổi tiếng: cái ông bạn chúng mình đó, chẳng có vẻ chi là người đam mê văn chương! Tôi bật cười thầm, nghĩ bụng, ông bạn này còn là chủ nợ của đám chúng tôi, những lần cháy túi vì tật nặn xì. Chắc chắn là bà không biết, Nguyễn Nhật Duật khởi đầu không phải bằng phê bình mà bằng một truyện ngắn, đăng trên đặc san văn nghệ của trường Sư Phạm Đà-lạt. Tên truyện là Huyền, và trong truyện ngắn, anh không hề thay Huyền, bằng bất cứ một chữ nào khác, thí dụ như nàng, cô ta, người nữ muôn đời, thánh nữ... Báo hại Huỳnh Phan Anh phải nhẩy xe đò về Sài-gòn, chỉ để mang lên một mớ chữ "Huyền" cho một nhà in ở Đà-lạt vốn không thể lường trước một sự thiếu hụt lạ lùng, bất ngờ, và cũng thật lý thú như vậy!

Nhân lúc Bạch Mao Sư Vương, sư tử bờm trắng bỏ ra ngoài, tôi nói, rất thích những bài viết của ông, ông Tôn ghé tai tôi nói nhỏ, tôi biết là anh thích, vì cũng một dòng mà ra: Ông anh tôi rất mê Nguyễn Tuân.

Có lẽ như vậy thật, văn Trúc Chi phảng phất không khí tùy bút Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Sẽ có người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử Tù, đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên" Thiển nghĩ, đọc là mô phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: Xuyến người bên lương hay người bên giáo" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình, rồi cứng đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy: Xuyến người bên lương hay là bên giáo"

Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không"
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54"
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.

Thì ra cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng...
(Cát Bụi Chân Ai, trang 12. Tô Hoài, nhà xb Thanh Văn, không ghi năm).

Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be"). Văn là người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân, nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những câu văn nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."

Tiện đây, tôi xin chép lại cả một đoạn phố, (cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị gì), với những người ngợm của nó: cái đống rác của cả một miền đất, sau "Mùa Thu", một thứ Xóm Cầu Mới (9):

'Ở cái ngã sáu đường đời ấy vẫn leo lắt ngọn đèn con của lão cà phê 81, ánh đèn chai và bếp lửa thùng cháo bác Chữ. Mấy bác xích lô tã chốc lại lạch xạch lượn lờ qua. Trông mặt người đạp xe cũng đoán được tung tích, mỗi người đều hằn nét bộ mặt thời gian và tờ lịch hàng ngày của thành phố. Có lão râu xồm khuya về uống rượu húp cháo rồi nằm vắt người trên đệm xe, sàn xe ngủ bên gốc cây. Đấy là các ông chánh, ông lý tề vừa chạy tây càn, vừa sợ Việt Minh trả thù đã bỏ các vùng trắng ven nội vào đây. Đám cơ sở hốt (10) chết bỏ vào thành, trẻ hơn, đỡ lầm lỳ, có thể lại công tác bí mật, không ác ôn như mấy lão xích lô râu rậm kia...

-Lão xế lô, lão lục tào xá này nhất định cũng tề ngụy cũ. Cả lão cà phê bít tất, lão cháo gà cứ dấm dớ thế nhưng trông tay thoăn thoắt nhặt tiền, xếp tiền thế kia đủ biết.

Nguyễn Tuân hỏi tôi:
-Có nhớ Két không"...'

Tôi trích một đoạn, trong Cát Bụi Chân Ai, chỉ để chứng minh: nhà văn - ở đây là Tô Hoài - quan sát giống hệt một điệp viên, và Nguyễn Tuân đã giải tỏa cả một đoạn văn đầy những chi tiết chết người như vậy, bằng một hồi tưởng về người đã chết. Nghe nói Tô Hoài viết Cát Bụi Chân Ai, là để "tạ lỗi" với vong hồn bạn, nhưng nhờ vậy, chúng ta thấy một Nguyễn Tuân "không chính thức", và bằng cách nào ông sống sót...

Trong hai nhà văn tiền bối kể trên, Tô Hoài mới là người thân cận với tuổi thơ của tôi, của "chúng tôi". Làm sao quên được cảnh tượng chú dế mèn võ sĩ được thiền sư xén tóc "cải hóa". (Hãy mường tượng ra, nghi lễ xuống tóc cho một tín đồ nào đó!). Làm sao quên hương ngọc lan của một buổi hẹn hò. Ôi nỗi đắng cay phải từ giã "quê người" đi tìm một "quê mình", đâu đó giữa đồn điền cao su bạt ngàn của một nước Nam-kỳ xa lắc, nơi chỉ có hai mùa mưa nắng, không còn những cơn gió buốt lạnh căm, không phải từ thiên nhiên ác nghiệt, mà từ lòng người thổi ra, không cần giờ giấc, không đợi mùa màng, ngày tháng... Làm sao mà hiểu nổi, một nhà văn với một thiên lương như vậy, với những quan sát tinh vi về loài vật, về một con người như Cu Lặc, lại có thể cay nghiệt như thế về một cõi tề, nguỵ" Đành phải giải thích bằng kinh nghiệm đọc Primo Levi, một nạn nhân của Lò Thiêu, qua bài viết: Những cuốn tiểu thuyết do dế kể (11).

Primo Levi nhắc tới một bài essay của Aldous Huxley, qua đó, nhà văn người Anh này, khi phải trả lời một người trẻ tuổi muốn nhờ ông ban cho một lời khuyên, bắt đầu viết như thế nào: hãy mua một đôi mèo, quan sát, rồi miêu tả chúng. "Nếu tôi (Levi) nhớ không nhầm, ông nói với người trẻ tuổi, rằng loài vật, và đặc biệt động vật có vú, đặc biệt hơn nữa, những loài vật nuôi trong nhà, chúng như chúng ta, nhưng 'bỏ cái nắp đi' ('with the lid off'). Cư sử hành động của chúng giống như của chúng ta, một khi mà chúng ta mất đi được (thiếu, lack) sự kiềm chế."

Thế giới con người trong Cát Bụi Chân Ai, lạ thay, là đảo ngược thế giới loài vật Tô Hoài mô tả, những ngày trước Mùa Thu. Những con vật của ông "người" hơn, so với những con người sau này (so với cách ông miêu tả con người sau này). Vẫn theo bài viết của Levi, từ tiếng nhạc dế có thể suy ra khí hậu của môi trường sống. Người ta còn nhận ra một điều: dưới những điều kiện thiên nhiên bình thường, dế đực và dế cái cùng một nhiệt độ, nhưng nếu thân nhiệt của dế đực (thí dụ vậy) tăng lên chỉ một hay hai độ, tiếng nhạc của nó tăng lên bán-cung, và bạn lòng của nó sẽ không trả lời: con cái không còn nhận ra dục tính ở con đực. Môi trường thay đổi chút xíu, thế là có một "thảm họa", một bất toàn, một khiếm khuyết, một bất xứng đôi, nẩy sinh: phải chăng chúng ta có một mầm (germ) tiểu thuyết ở đây" Levi tự hỏi.

Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách giải thích "vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa Thu làm thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình. Ở đây, ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với giấc mơ trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy hai ông sư giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ 72 tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy vọng cải hóa...

Tôi đọc Trúc Chi, và tưởng tượng, mình cũng đang ngấm chất văn chương của ông, theo kiểu nhân vật cái bang ngấm chất trà của một thời vang bóng, theo kiểu Trúc Chi ngấm chất rượu bữa gặp mặt, hay như... nhân vật xưng tôi ngấm tiếng đàn của một người đẹp không thể đàn được nữa. Tôi cứ hồi hộp, cái ông này, làm thế nào bây giờ, làm sao lại làm khó người yêu xưa, ở xứ người, bằng tiếng Cầm Dương Xanh (12) ngày nào, ngày nào...

Nghe Đàn (13) mở ra bằng một lời nhạc: Dạo ấy đời đẹp thiệt, đẹp hơn bây giờ...

Tôi nghiệm ra một điều, trí nhớ của ông bạn là một nhạc viện, hơn là một thư viện. Hình như cái tật của ông, mỗi lần hồi tưởng, là phải bắt đầu bằng một lời nhạc. Tôi đã từng "nhờ ông nhớ giùm" một câu hát, để choàng lên ý thơ cổ mà ông vua mê gái Tự Đức đã mô phỏng, tất cả chỉ để "choàng hoa" cho một cô bạn "của mình":

Đâu con phố đơn côi,
Như tên thường gọi
Nơi bóng cũ,
Gương xưa,
Gặp gỡ"

(Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet"

... Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.

... Bây giờ, phút này tôi đang nhớ đến cái dáng trang trọng của Hương Cơ khi nàng bưng một lư trầm nhỏ ra đặt trên cái bàn con trong phòng khách, khẽ nhắc Phấn:
-Anh tắt bớt đèn đi.

Xong nàng đỡ cây đàn tranh trên chiếu, thong thả ngồi xuống, rồi bắt đầu vặn trục so dây. Vẻ đẹp của người đàn bà vốn có sẵn nhan sắc thiên phú, lúc dịu dàng kéo lại tà áo cho thẳng thớm trước khi đem tấm lòng của mình ra mà ngỏ với một người mà nàng cho là biết nghe nhạc cổ của đế đô, tôi không đủ tài tả hết. Nhưng mà tôi cảm động lắm, cảm động đến độ vọt miệng nói ra một câu thật ngớ ngẩn:
-Nãy giờ chưa thấy chị ăn uống chi cả. Để chị dùng cơm rồi mới đàn chứ.
-Dạ không, bụng có trống thì tiếng đàn mới thanh thoát được, mới hư được. Thầy dậy tôi vậy. Là vì tiếng đàn, cái nhấn là để cho nó một phần thực thôi, còn thì phải là chín phần hư mới trúng cách.

... Phấn bạn tôi đã nằm xuống rồi. Người sĩ quan thiện chiến và tài hoa ấy vào phút cuối cùng đã trối với một người bạn tù...

Còn Hương Cơ (14), qua kể lại của người con trai... trong những ngày đói khó sau khi cha nó bị đem ra ngoài Bắc để cho người ta sửa đổi tạo một cái gì mới đó (tôi cũng không biết rõ) mẹ nó ở nhà xoay sang mở quán ăn để độ nhật. Trong khi nấu nướng củi lửa dầu mỡ sao đó mà Hương Cơ bị phỏng nặng... khiến cho ba ngón tay chết cứng...

Đọc là liên tưởng, là mò mẫm tìm sợi giây vô hình nối kết những con chữ, nối kết những linh hồn, những tâm hồn... tôi cứ tưởng tượng ra rằng Hương Cơ, trong một phút quá hoảng sợ những ngày sắp tới, quá nhớ nhung người chồng ở trại tù... đã "lơ đễnh" thò tay vào chảo dầu cũng nên! Trong Trăm Năm Cô Đơn, bà cụ ngoại-ngoại của Ursula Iguarant, khi Sir Francis Drake đánh chiếm Riohacha vào thế kỷ 16, nghe tiếng chuông trống báo động, tiếng đại bác, bà mất vía, ngồi ngay lên cái chảo mỡ sôi. Những vết phỏng biến bà thành một người vợ vô dụng suốt quãng đời còn lại. Ngay trong Nghe Đàn, Trúc Chi vẫn còn bị ám ảnh bởi biến cố Mậu Thân ở Huế, khiến ông phải "mở ngoặc đóng ngoặc", và chính nó làm cho ông nhớ đến Hương Cơ...

Về tai nạn, Trúc Chi đành đổ cho lịch sử, cho cuộc nồi da nấu thịt. Nhưng mượn cái cớ mà Nguyễn Du vin vào đó bắt Kiều mười lăm năm lưu lạc, người viết xin được đưa ra một hai lời bàn Mao Tôn Cương ở đây.

Là bởi vì, ngay khi đọc ông tả một nhan sắc, một tiếng đàn như thế, người đọc đã "hốt" rồi: làm sao mà "lão tặc thiên" (chữ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn) không quen thói má hồng đánh ghen cho được"

Sẽ có người bực mình, bỏng có ba ngón tay mà làm rối lên, nhất là sau một cuộc nồi da nấu thịt. Thật ra, chẳng thể nào mà trả lời cho một sự bực bội "thuần lý" như vậy, như Nabokov khẳng định, khi đọc Hóa thân của Kafka: biến thành con bọ, rồi sao" Nhưng ông cho rằng trước nỗi sững sờ "thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt", con người đành thốt lên: Beauté plus pitié, Cái Đẹp cộng Thương Hại (15). Đây cũng là tâm trạng cùng một lứa bên trời lận đận, đồng bệnh tương lân giữa nghệ sĩ và nghệ sĩ. Và đó cũng là cách chúng ta tiếp cận nghệ thuật: Nơi nào có cái đẹp nơi đó có thương hại, bởi vì một lý do thật giản đơn: cái đẹp phải chết. Mỹ nhân tự cổ như danh tướng...

Vả chăng, cái tai nạn đó, là bắt buộc phải có, như một chia sẻ cùng Nạn Lớn, Kinh Hoàng Lớn. Ở đây, tôi lại mượn Kafka, và "con bọ" của ông, và cứ nói "xưng xưng" ra rằng: Phải có tai nạn đó, nhan sắc tiếng đàn của Hương Cơ mới được vẹn toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.