Ngay cả trước ngày xảy ra cuộc Kháng chiến ở miền Nam, sau ngày Nhựt đảo chánh Pháp, Ông Huỳnh Phú Sổ đã đi hầu như khắp miền Tây Nam bộ để thuyết giảng và khuyến nông, nhân có vụ cứu đói cho miền Bắc. Trong vòng hai tháng, từ 10-6-1945 đến thượng tuần tháng 8, 1945, Đức Thầy thuyết giảng tại 107 địa điểm (Thất Sơn Mầu Nhiệm, trang 246 của Dật sĩ và Nguyễn Văn Hầu).
Thoát ra khỏi sự bao vây của thực dân Pháp, Đức Thầy đã thành lập tổ chức Việt Nam Vận Động Độc Lập Hội. Cùng với các hội đoàn yêu nước, ngày 14-8-1945, Đức Thầy đã đứng chung trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Quần chúng Nam Bộ đã ủng hộ nhiệt liệt Mặt Trận trong cuộc biểu tình 200.000 người ngày 21-8-1945. Rất tiếc là vì Nhật thất trận nên Mặt Trận Quốc Gia lại tỏ thiện chí sẵn sàng giao quyền cho Việt Minh là một “tổ chức có hi vọng thành công” tranh thủ độc lập vì họ “được Đồng Minh ủng hộ”! Trần Văn Giàu đã phỗng tay trên để tuyên bố thành lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ ngày 25-8-1945 với chín người mà hết tám là cán bộ Cộng sản.
Sự bất bình của dân chúng và các đảng phái trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã đưa đến việc triệu tập buổi hội ngày 4-9-1945 tại trường Mỹ Thuật Gia Định để cải tổ Lâm Ủy. Huỳnh Giáo chủ đã chủ tọa phiên họp này. Các cán bộ Trung Ương được Hồ Chí Minh phái vào Nam như Hoàng Quốc Việt và Cao Hồng Lãnh có mặt trong buổi hội đã đi đến quyết định trên nguyên tắc phải cải tổ Lâm Ủy.
Ngày 7-9-1945 tại trụ sở Tổng công đoàn đường Lagrandière, Trần Văn Giàu phải chấp nhận để Phạm Văn Bạch làm chủ tịch Ủy ban Nhân dân Nam bộ (Thay thế Lâm Ủy Hành Chánh). Trần Văn Giàu xuống làm phó nhưng vẫn giữ chức Ủy viên Quân sự.
Trong buổi hội này, Giàu được Lý Huê Vinh cho biết Hòa Hảo sẽ biểu tình ở Cần Thơ vào sáng hôm sau. Giàu đã du côn đập bàn chất vấn Đức Thầy: “Ông Giáo chủ nghĩ sao"” Ông Huỳnh Phú Sổ đã ôn tồn cho biết đó là một cuộc biểu tình hợp pháp, đã được xin phép trước với chánh quyền địa phương.
Cuộc biểu tình ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất và chống độc tài đã bị đàn áp dữ dội. Ba nhân vật trong ban tổ chức: Huỳnh Thành Mậu, em của Đức Thầy, Trần Văn Hoành trưởng nam của ông Trần Văn Soái, nhà văn Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp bị đưa ra xử tử ở sân vận động Cần Thơ. Trong quyển “Cách Mạng Tháng Tám” trang 360, quyển II của Nhà Xuất bản Sử học, in ở HàNội năm 1960 có viết: “Bọn phản động trong đạo Hòa Hảo đã cử tên tờ-rốt-kít Nguyễn xuân Thiệp, đại diện cho trung ương Hòa Hảo làm tổng chỉ huy cuộc bạo động lật đổ chánh quyền cách mạng ở Cần Thơ”. (Trong hàng ngũ Đệ Tứ không bao giờ có tên của Việt Châu, Nguyễn Xuân Thiếp. Gán cho Việt Châu là trốt kít để có cớ thanh toán!) Rất nhiều cán bộ Hòa Hảo ở các tỉnh khác cũng bị bắt và bị giết. Ông Lâm Thành Nguyên đã may mắn thoát chết ở Trà Vinh trong giai đoạn này.
Tại Sài Gòn đêm 9-9-1945 Trần Văn Giàu ra lịnh cho Quốc Gia Tự Vệ Cuộc của Nguyễn Văn Trấn bao vây trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo ở số 8 đường Sohier, góc đường Miche (Phùng Khắc Khoan sau này), nhưng không bắt được Đức Thầy.
Ngày 23-9-1945, ngày mở màn cuộc kháng chiến Nam Bộ, bốn sư đoàn dân quân được thành lập cùng lúc với Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất đã nhứt tề đứng lên phong tỏa Sài Gòn trong khi các bộ phận của Trần Văn Giàu đều chạy thoát về Chợ Đệm (Tân An). Bốn sư đoàn đang thành lập này (Sư đoàn 1: Bình Xuyên và cựu quân nhân; Sư đoàn 2: Cao Đài với 3000 binh sĩ trong tổ chức Heiho; Sư đoàn 3: Dân Quốc Quân của tướng Nguyễn Hòa Hiệp; Sư đoàn 4: Hòa Hảo) đã lâm trận và Pháp đã xin thương thuyết, hoãn binh từ 1-10 đến 10-10-1945.
Thay vì nên thừa cơ hội hưu chiến để củng cố lại lực lượng chống Pháp, lợi dụng sụ rảnh tay này, Trần Văn Giàu đã ra lịnh lùng bắt và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng quốc gia, từ Hồ Văn Ngà đến Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Trần Quang Vinh và nhất là các cán bộ Đệ Tứ: Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh vv…
Cuộc khủng bố trắng này là một tội ác tày trời của Trần Văn Giàu đã tiêu diệt các nhân tài trí thức yêu nước của miền Nam. Trong tài liệu “Tặng thế hệ nay và mai sau”, ông Trịnh Hưng Ngẫu có viết: “Ngày 13-6-1946, Trần Văn Giàu chạy thoát sang Bangkok (Thái Lan)... và thú nhận chính hắn ra lịnh thủ tiêu gần hai ngàn năm trăm (2500) cán bộ quốc gia... Chủ trương dài hạn của Cộng sản Đệ tam thực hiện trên căn bản lý luận là: cán bộ lãnh đạo không thể thay thế trong một thế hệ... Tiêu diệt các phần tử lãnh đạo của giới quốc gia là tiêu diệt cái đầu lãnh đạo trong nhiều thế hệ...”
Trần Văn Giàu chạy qua Thái Lan, Dương Bạch Mai thoát ra Bắc ...bỏ lại việc chống Pháp cho các tổ chức ái quốc tự đảm nhiệm! Vào tháng 2-1946, tướng Nguyễn Bình được Trung Ương Bắc bộ phái vào Nam để xây dựng lại kháng chiến Nam bộ. Nguyễn Bình tức Nguyễn Phương Thảo đã từng hoạt động trước kia với tướng Nguyễn Hòa Hiệp của miền Nam dưới danh nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Bình đã bỏ đảng qua đầu Cộng sản Đệ tam và lúc đó đang chỉ huy Đệ tứ Chiến khu ở Bắc. Được chỉ thị vào Nam thật ra là thủ đoạn để đưa Nguyễn Bình khỏi vùng anh ta đang gây thế lực ở Bắc" Rút tỉa kinh nghiệm máu xương đắt giá năm 1945, các chiến sĩ cách mạng miền Nam đều đã cảnh giác, luôn luôn đề phòng âm mưu của ông tướng độc nhãn này.
Để tránh các âm mưu Cộng sản Đệ tam thao túng, các tổ chức cách mạng miền Nam đã thảo luận kín đáo để tổng hợp lại các lực lượng quân sự trong một mặt trận chung. Ngày 2-4-1946, một phiên họp đã được triệu tập tại Bà Quẹo để thành lập Ủy ban Liên hiệp Kháng chiến. Tiếp theo đó, ngày 20-4-1946, một đại hội quân chính được Vũ Tam Anh triệu tập cũng ở Bà Quẹo là vùng của Huỳnh Văn Trí, Chỉ huy trưởng Vệ Quốc Đoàn Bà Quẹo. Trong phiên họp ba ngày này, giáo sư Phạm Thiều là đại diện phòng chính trị khu 7 của Nguyễn Bình. Mai Thọ Trân đại diện cho Hà Huy Giáp của Kỳ bộ Việt Minh. Các đại diện tôn giáo đều có mặt: Huỳnh Giáo chủ (Hòa Hảo), Lê văn Tỵ (Cao Đài), Linh mục Nguyễn Bá Sang (Thiên chúa giáo), Lâm văn Hậu (Tịnh độ Cư sĩ). Các đảng phái có: Trần Văn Lâm (Việt Nam Quốc Dân Đảng), Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn (Việt Nam Quốc Gia Độc Lập). Các đại diện lực lượng quân sự đều có đủ. Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đã được ra đời sau đó và Ban Chấp hành đã được thành lập với: Huỳnh Giáo chủ làm chủ tịch.
Quân Pháp đã tìm cách tiêu diệt mặt trận quốc gia thống nhật này. Cộng sản Đệ tam cũng sợ Mặt trận Liên hiệp là đối thủ của Việt Minh nên Nguyễn Bình và giáo sư Phạm Thiều đã được chỉ thị phải rút ra khỏi Mặt trận Liên hiệp. Cộng sản cho ra đời Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam tức Hội Liên Việt và dùng thủ đoạn hành chánh giải tán Mặt trận. Họ lấy lý do là vì thường có sự lầm lẫn giữa Liên Hiệp và Liên Việt. Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp vì thế phải được giải tán để sát nhận vào Hội Liên Việt!
Trong tình huống đó, Mặt trận Quốc gia Liên hiệp đã bí mật thỏa thuận đoạt lấy thế chủ động ở miền Hậu giang và bỏ khu 7 cho Nguyễn Bình.
Ngày 21-9-1946, Huỳnh Giáo chủ cho ra mắt Dân Xã Đảng để tổ chức quần chúng Hòa Hảo. Trong tinh thần hợp tác hành quân nhưng vẫn giữ đơn vị quân sự riêng, không nhận các chính trị viên của Nguyễn Bình gởi đến, Huỳnh giáo chủ đồng ý nhận lời tham gia Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ với chức Ủy viên Đặc biệt (14-11-1946). Đầu tháng 2-1947 tại Tòa thánh Tây Ninh đã có một cuộc họp giữa Huỳnh Giáo chủ và Hộ pháp Phạm Công Tắc để thỏa thuận việc kín đáo và bất ngờ di chuyển các lực lượng vũ trang về chiến khu 8 và 9 miền Tây vào ngày 5-4-1947.
Kế hoạch này chắc hẳn được Việt Minh phát hiện. Nguyễn Bình đã ra lịnh ngăn chận các sự di chuyển. Chi đội 18 của Nguyễn Văn Xuyến và chi đội 12 của Huỳnh Tấn Chùa đã phục kích làm trở ngại việc tiến quân về miền Tây. Nguyễn Bình cũng đã ngầm thông báo để phi cơ Pháp oanh tạc cuộc chuyển binh. Các đơn vị Cao Đài và Bình Xuyên đã phải kẹt lại. Chỉ có các đơn vị Hòa Hảo và Đại Việt là thoát được về Đồng Tháp.
Kế hoạch gom quân này chính là yếu tố chánh khiến Đảng Cộng sản Đệ tam đã phải đi đến quyết định ám hại cho bằng được Đức Huỳnh Giáo chủ.
ÁM HẠI ĐỨC HUỲNH PHÚ SỔ NGÀY 16-4-47
Âm mưu ám hại Đức Huỳnh Giáo chủ đã được xếp đặt bằng cách mời Đức Thầy từ chiến khu 7 là chiến khu miền Đông, về Hậu giang để hòa giải các xung đột giữa Việt Minh và Hòa Hảo Dân Xã.
Trần Văn Nguyên, Thanh tra Chánh trị miền Tây Nam bộ và Bửu Vinh mời Đức Thầy đến hội ở làng Tân Phú. Ngày 15-4-1947, Trần Văn Nguyên đón Đức Thầy ở chợ Ba Răng và buổi trưa đi cùng ghe đến Đốc Vàng hạ thuộc thôn Tân Phú. Sáng ngày hôm sau, 16-4-47, Đức Thầy hội đàm với Trần Văn Nguyên và sau đó, phái người đi cùng Nguyên đến các thôn để hòa giải.
Cũng vào buổi trưa, 16-4-47, Bửu Vinh lại đến xin Đức Thầy đi ngay Lấp Vò vì Dân Xã giết Việt Minh ở đó. Đức Thầy đòi Bửu Vinh cùng đi nhưng Vinh từ chối, đòi phải có bộ đội võ trang hộ tống mới đi. Đức Thầy đã hỏi: ” ại sao tôi có một ít người, không có bộ đội ủng hộ, lại dám vào sào huyệt của các ông"” Bửu Vinh đành phải nhận lời và yêu cầu Đức Thầy đến văn phòng của y cùng đi. Trong lúc đó Trần Văn Nguyên lại trở về gặp Đức Thầy đểợ đưa một điện tín của Ủy ban Hành chánh Nam Bộ mời Đức Thầy về miền Đông lập tức để dự một phiên họp bất thường. Đức Thầy từ chối vì còn lo việc hòa giải. Trần Văn Nguyên vội vã đi ngay trong đêm.
Trong buổi hội đêm 16-4-1947 với Bửu Vinh, tám người đã vào đâm bốn tự vệ quân của Đức Thầy. Ba người bị chết trừ một là Phan Văn Tỷ đã tránh được và ra ngoài bắn tiểu liên phi báo.
Từ đêm đó, bặt tin về Đức Thầy.
Sau ngày 16-4-1947, Cộng sản đã khủng bố ác liệt tín đồ Hòa Hảo. Hơn cả chục ngàn người đã bị giết và chôn trong những hầm tập thể ở các vùng Phú An Phú Lâm, Tân Thành Cái Cái... Sự đối kháng của cán binh Hòa Hảo chống lại sự đàn áp của Việt Minh cũng không kém phần khốc liệt.
Trong tình huống phải đối đầu với Pháp trước mặt và Việt Minh sau lưng, vấn đề phải hợp tác với Pháp là một việc khó xử nhưng đã phải đưa đến việc ký kết Hiệp ước Liên quân ngày 18-5-1947 giữa ông Trần Văn Soái và Đại tá Cluzet ở Cần Thơ.
KẾT LUẬN
Như đã trình bày ở các đoạn trên, ở Nam bộ, Đảng Cộng sản Đệ tam đã phải đối đầu với một Giáo chủ có trên hai triệu tín đồ được tổ chức trong lực lượng bán quân sự Bảo An Đoàn. Thứ đến họ đã phải tranh đấu về mặt chính trị với chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ tự do, công bằng và nhân đạo của Dân Xã Đảng, khác với chủ trương độc tài, vô sản hóa và tập sản hóa nông dân của Cộng sản. Cuối cùng Đảng phải quyết liệt chống lại kế hoạch gom lực lượng võ trang các tổ chức quốc gia định nắm lấy thế chủ động ở hai chiến khu đồng bằng sông Cửu Long là khu 8 và khu 9.
Vì thế Đảng phải nhất quyết ám hại Đức Huỳnh Phú Sổ!
Những thảo luận đi đến quyết định nầy ắt hẳn cũng rất gay go vì khó tiên đoán được hậu quả. Người viết bài còn giữ được các cuộc băng ghi âm buổi nói chuyện của Trần Văn Giàu, ngày 17-10-1989 ở Paris. Trần Văn Giàu đã cho biết: “Chúng tôi đã có lúc định bắt Huỳnh Phú Sổ để đưa ra Bắc, nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh thuyết phục...”
Gần đây hơn, hai sử liệu hiện lưu trữ ở Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris (Bibliothèque Nationale de Paris-Centre des Hautes Études sur l’Afrique et l’Asie Moderne- Notes sur le PGHH, Tác giả: Savany), đã đưa thêm một khía cạnh mới liên quan đến sự ám hại Đức Huỳnh Phú Sổ:
1- Quyết Định đề ngày 28-4-1947 của Ủy ban Hành chánh Nam bộ, do Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Thuần ký: Cách chức Ủy viên Đặc biệt và truy tố Huỳnh Phú Sổ về tội phản bội.
2- Thông Cáo ngày 20-5-1947 của Ủy ban Hành chánh Nam bộ cho biết một phiên tòa đặc biệt được thành lập ngày 25-4-1947, đã lên án tử hình và cho hay đã xử tử Huỳnh Phú Sổ.
(Các tài liệu này đã được nhà văn Như Phong Lê Văn Tiến phát hiện khi sang Pháp sưu tầm trong văn khố Thư Viện Quốc gia Paris)
Nếu tra lại lịch trình, chúng ta nhận thấy Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ bị ám hại đêm 16-4-1947. Quyết định truy tố của Ủy ban Hành chánh Nam bộ đề ngày 28-4-1947 và Thông cáo của Ủy ban nói trên đề ngày 20-5-1947.
Việc này khiến ta có thể tự hỏi:
1- Sau khi đã ám hại Đức Thầy, Ủy ban Hành chánh Nam bộ đã ra Quyết định và Thông cáo để dối trá” hợp thức hóa” việc làm của Việt Minh chăng"
2- Phiên tòa đó có thật sự diễn ra không và thành phần gồm những ai" Vì sao trong Quyết Định ngày 28-4-1947, không có đoạn nào đề cập đến “phiên tòa đặc biệt ngày 25-4-1947” (tức là 3 ngày trước khi có Quyết Định), đã được ghi trong Thông cáo ngày 20-5-1947"
3- Trong đoạn 3 của Quyết Định do ông Phạm Ngọc Thuần ký có ghi: “Quyết Định này sẽ được điện về Chánh phủ Trung ương trong thời hạn ngắn nhất”. Như vậy ắt hẳn Hà Nội nay hãy còn lưu giữ trong văn khố".
4- Tại sao một quyết định quan trọng như trên lại do Phạm Ngọc Thuần là Phó Chủ tịch ký, thay gì đáng lý ra phải do Chủ tịch UBHC Nam bộ là ông Phạm Văn Bạch ký"
Ông Phạm Ngọc Thuần là người ký Quyết Định đề ngày 28-4-1947 hiện còn sống hồi hưu ở Pháp sau thời gian giữ chức Đại sứ của chánh phủ Hà Nội. Chỉ có nhân chứng này mới soi sáng được thắc mắc của chúng ta mà thôi, nếu ông còn là một trí thức lương thiện trước Tòa án Lịch sử.
Texas, ngày 1-1-2000.
Để thành kính tưởng niệm Lễ Đản Sanh thứ 80 của Đức Thầy.
B.S. Trần Ngươn Phiêu