Imre Kertész
Thường xuyên sống trong những môi trường ngôn ngữ khác, những nhà văn này [Joseph Roth, Franz Kafka, Celan] viết bằng tiếng Đức, và họ làm như vậy, là bởi vì đây là thứ ngôn ngữ họ nói, trong mái ấm gia đình của cha mẹ; và vì là người Do Thái, do đó, không có gốc rễ, và là người của muôn phương, như kẻ thù của họ muốn như vậy, họ suy nghĩ theo những chiều hướng của một ngôn ngữ lớn (a major language). Viết bằng tiếng Đức có ý nghĩa độc lập về trí thức đối với những nhà văn trên; nó đảm bảo sự tự do mình là mình của họ. Ngày nay, vang bóng một thời, những khu vực văn hóa Đức mang tính địa phương, cục bộ (tôi nhấn mạnh từ địa phương, cục bộ - partial) - hãy cứ nói là từ vùng bán đảo Crimea, qua Bukovina tới Galica - chẳng bao giờ làm giầu cho văn hóa Đức, và những kẻ độc nhất, trách nhiệm những mất mát này, là người Đức, chính họ.
Coi chính trị và văn hóa như là kẻ thù thay vì là đối nghịch, là một hiện tượng đặc thù của thế kỷ 20. Nó không hề là một phát triển mang tính tự nhiên; chính trị ly dị, tách lìa ra khỏi văn hóa, tạo ra chuyên chế vô giới hạn qua toàn quyền toàn lực, và có thể gây hủy hoại một cách thật là tàn khốc.
Cuộc ly dị này có thể không hủy hoại mạng sống, của cải, nhưng nó luôn luôn làm hư ruỗng hồn người (human soul). Những phương tiện hủy diệt làm hư ruỗng [hồn người] của nó được gọi bằng cái tên: ý thức hệ. Thế kỷ 20 -một thế kỷ được còn được nhắc nhở đến nhiều, do sự mất mát tàn khốc về những giá trị văn hóa - đã biến đổi những gì được coi là những giá trị, thành ý thức hệ.
Sắc thái bi thảm nhất của sự biến đổi này là, những tầng lớp dân chúng hiện đại chẳng bao giờ được sờ mó tới cái gọi là văn hóa, thay vì vậy, họ có được ý thức hệ. Sự phát triển này có nhiều nguyên nhân, một trong số đó, rõ ràng là sự kiện này, những tầng lớp dân chúng như thế đó, đã xuất hiện đúng vào thời điểm, khi văn minh Âu Châu trải qua một cuộc khủng hoảng về tinh thần sâu thẳm "nhất", có thể nói là "nhất, nhất". Họ là những con người có mặt đúng lúc, khi, với sự trợ thủ của những kỹ thuật tinh vi, tuyệt vời, được phát triển bởi guồng máy của những đảng phái chính trị, đã nắm lấy quyền kiểm soát, và sử dụng những tầng lớp dân chúng này. Hình như [nhà văn Đức] Thomas Mann đã từng nói, thật là quá đầy đủ, khi gọi một khối dân đông đảo, là một Volk, khi muốn họ ôm lấy bất cứ việc gì. Đâu có cần tới quyền lực của một nhà nước toàn trị ra tay làm điều này. Uy quyền của một Franco, một Dolfuss, hay một Nicholas Horthy đã có thể biến tín ngưỡng, lòng ái quốc, hay văn hóa, thành chính trị, và biến chính trị, chính nó, thành một dụng cụ của hận thù.
Hận thù và dối trá - đây chắc là hai yếu tố quan trọng nhất của nền học vấn mang tính chính trị mà dân chúng của thế kỷ 20 hấp thụ được. Chúng ta chỉ cần nhớ lại "Hai Phút Hận Thù" (Two Minutes Hate) này, trong tác phẩm 1984, của nhà văn George Orwell.
"Dối trátrở thành một sức mạnh thành lập lịch sử, hung hãn chưa từng có, trong ba mươi năm trở lại đây," Sándor Márai viết vào năm 1972. Điều này đặc biệt đúng đối với những xứ sở thuộc đông và trung Âu Châu; sau cuộc thế chiến thứ nhất, những tình cảm quốc gia tại đây nở rộ. Vương quốc Áo-Hung, một thế lực lớn lao thuộc trung Âu Châu, sụp đổ, và sự tan rã của nó đã sản xuất ra độc dược, những độc dược này làm độc những quốc gia mới mẻ, mọc lên từ nơi vương quốc Áo-Hung đổ xuống. Trong những đại học và trung học của một nước Hungary bị cắt cụt thun lủn, những luật lệ mang tính phân biệt đối xử đã được đem ra sử dụng, và, vào năm 1938, một thứ hiến pháp bài Do Thái hơn, đã có hiệu lực. Vào năm 1944, họ đeo cho tôi một ngôi sao vàng, và theo một nghĩa biểu tượng, nó vẫn còn đó; từ cái ngày ấy, tôi không làm sao gỡ nó ra được nữa.
Chắc có người kinh ngạc, tôi phải thừa nhận điều này, bởi vì đã hơn mười năm, sau sự trừ khử những nhà nước toàn trị cuối cùng tại Âu Châu, hơn mười năm, sau sự ra đời của chế độ dân chủ tại phần đất này của Âu Châu, vậy mà tôi vẫn còn nói như vậy. Những đau nhức như thế của tinh thần, có vẻ như chúng tự động sản xuất ra một thứ bệnh trạng của riêng nó, chúng ta chẳng thể nào hoàn toàn thấu đáo về một chuyện như vậy. Hãy lấy thí dụ, bạn có ý nghĩ là, thế giới chung quanh bạn thì đầy hồn ma, cứ như thể chính bạn cũng trở nên không thực, và cũng chỉ là một hồn ma.
Hay là trường hợp ngược lại, xẩy ra: bạn cảm thấy mình là đồ ngoại, cái mình là mình ấy là ngoại, như thể tất cả những gì bạn làm ra, đều trôi tuột đi, nhập vào môi trường chung quanh bạn, và đây là một môi trường không dính dấp, chẳng quen thuộc, và cũng chẳng tỏ ra thân mật với bạn: một môi trường phóng ngoại. Vợ tôi, là người Mỹ, do đó chẳng có vướng mắc gì với những thứ bệnh hoạn Đông Âu, đã nhận ra điều này: khi chúng tôi đi ra nước ngoài, tôi trải qua một sự thay đổi hoàn toàn nhân cách, con người của tôi. Ở trong những xứ sở ngoại quốc, tôi cảm thấy [như là] ở nhà của mình trong khi, ở nhà, tôi xử sự như một kẻ xa lạ.
Với những người ngoại quốc tôi xoay sở, nói năng, xử sự thoải mái, nhưng, với những đồng bào của mình, tôi cảm thấy chẳng thoải mái một chút nào, như muốn bịnh. Trong chế độ độc tài được gọi là xã hội chủ nghĩa, tình trạng này là tự nhiên, bình thường, và nhiều hay ít, tôi học sống với nó. Làm quen với chủ nghĩa sắc tộc chắc là mất thì giờ nhiều hơn. Nhưng ít nhất, tôi bây giờ ngụp sâu tới tận đáy, của một vấn đề, và không chỉ một mình tôi, tôi tin như vậy.
Trong cuộc sống hàng ngày của tôi, tôi thường xuyên [phải] đáp ứng với những cú chích, giống như bị điện chích lên da, nhẹ thôi, từ thế giới chung quanh. Nói theo kiểu ẩn dụ, tôi hằng hằng cào xước tôi. Tất cả chúng ta đều quen thuộc với câu châm ngôn nổi tiếng của Montesquieu: "Trước hết, tôi là một con người, và rồi thì, tôi là một người Pháp." Những kẻ phân biệt sắc tộc - bởi vì chủ nghĩa bài Do Thái, kể từ sau Lò Thiêu Auschwitz, chẳng còn chỉ là bài Do Thái - muốn, tôi, trước hết, là một người Do Thái, và rồi thì, không còn là một con người nữa.
(còn tiếp)
Jennifer Tran chuyển ngữ