Bản phúc trình viết là tất cả các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều phải xin phép nhà nước nếu muốn thực hiện những buổi huấn luyện về đạo giáo, hay tổ chức hội thảo và những buổi thờ phượng nằm ngoài lịch trình thường lệ, vì chủ trương mà nhà nước đặt ra là càng ít hội họp càng tốt.
Ngay cả việc sửa chữa hay xây dựng địa điểm thờ phượng cũng phải xin phép chính quyền, nếu muốn tham gia các chương trình từ thiện cũng phải có phép của nhà nước, và muốn huấn luyện tập sinh, chủng sinh, muốn cho chủng sinh tập sinh chịu chức, muốn bổ nhậm, thay đổi các tu sĩ từ nơi này đến nơi khác cũng phải được nhà nước chấp thuận. Ngay chính trong sổ hộ khẩu, người dân Việt Nam cũng bị bắt phải ghi rõ tôn giáo của mình.
Bản phúc trình cũng nói là mặc dù hiến pháp và luật pháp cam kết bảo vệ quyền tự do hành đạo của dân chúng, nhưng luật lệ này được áp dụng tùy theo từng địa phương, chẳng hạn như ở các thành phố lớn, người dân Việt Nam được dễ dãi hơn trong việc tu đạo và hành đạo, nhưng ở những khu vực nông thôn, ở các khu thuộc vùng cao, tình trạng đàn áp tôn giáo vẫn tiếp tục diễn ra. Bản phúc trình còn ghi rõ là tại một số địa phương, nhất là ở vùng Tây Bắc, các viên chức địa phương cho hay người dân trong khu vực mà họ cai quản không ai có đạo cả, vì những người có tín ngưỡng không được công nhận ở những khu vực này.