Hôm nay,  

Người Chơi Dương Cầm

07/04/200300:00:00(Xem: 3997)
Chương Một
Giờ của Những Đứa Trẻ và Những Người Điên

Tôi bắt đầu nghề chơi dương cầm tại quán cà phê Nowoczesna, phố Nowolipki, ngay tại trái tim của khu ghetto Warsaw. Vào thời gian mà ghetto bị dẹp, vào tháng Một năm 1940, gia đình tôi, trước đó, đã phải bán không còn một thứ gì ở trong nhà, luôn cả món đồ quí giá nhất, là cây đàn dương cầm. Cuộc sống, cho dù chẳng còn chi quan trọng, không cho phép tôi được ngồi ỳ ra đó mà than van, và phải tìm ra con đường mưu sinh. Và cám ơn Trời, tôi đã kiếm ra. Công việc chơi dương cầm tại quán cà phê làm cho tôi chẳng còn thì giờ mà than van về nỗi đen đủi, và niềm lo âu, cả gia đình trông vào một mình mình, đã khiến tôi vượt lên sự tuyệt vọng và chán ngán.
Ngày làm việc của tôi bắt đầu vào sau trưa. Muốn tới tiệm cà phê, tôi phải len lỏi trong những ngõ ngách giống như đường bàn cờ, và có khi, để thay đổi, tôi đi dọc theo khu bờ tường, và như thế, tôi có thể quan sát hoạt động nhộn nhịp của những người buôn lậu.
Xế trưa là thời điểm tốt nhất để buôn lậu. Đám cảnh sát, mệt nhoài sau một buổi sáng nhét đầy túi, lúc đó lo đếm tiền. Những bóng người không ngừng di động, xuất hiện tại những cửa sổ hay những hành lang trong những khu nhà dọc theo bờ tường, rồi lại chui rúc ẩn trốn, nôn nóng chờ đợi chuyến hàng. Có tiếng xe, tiếng giầy bốt từ phía bên kia bức tuờng vọng qua, và khi chiếc xe ngựa chạy tới điểm hẹn, một tiếng huýt sáo có thể vọng lên, và những bao bị cứ thế bay qua tường. Những bóng người nôn nóng chờ đợi, từ những xó xỉnh hành lang ùa ra, quơ vội hàng, chạy về chỗ núp. Và sau đó, một sự yên ắng chứa đầy cạm bẫy, lừa lọc, nhưng cũng đầy nôn nao, trông chờ, trong giây lát phủ lên khu phố. Vào những ngày cảnh sát chịu khó săn ruồng, bạn nghe thấy tiếng súng hoà lẫn tiếng xe ngựa, và những trái lựu đạn cầm tay, thay vì những bị hàng, được quăng qua tường, gây những tiếng nổ inh tai, và làm văng những mảnh gạch vụn từ những tòa nhà bên trong ghetto, sát bên bức tường.
Những bức tường bao quanh khu ghetto, có những khúc không dựng lên từ mặt đường, mà lại ăn sâu xuống dưới mặt đất, tạo ra những ống dẫn, nước từ khu dân Đức đổ xuống đó, ngay bên dưới khu Do Thái. Trẻ con thường dùng những ống nước làm nơi buôn lậu. Bạn có thể nhìn thấy những cái bóng đen nho nhỏ, những cẳng chân như những que diêm, ngó ngược ngó xuôi, từ mọi phía lốc nhốc ùa tới khu ống nước, vớ vội những bị hàng trong ngày, thường quá khổ so với vóc dáng của chúng. Và, lặc lè với những bị hàng ở trên vai, trên đầu, trên cổ, loạng choạng chạy, miệng há hốc vì vác nặng, và để thở, những hơi thở đứt đoạn, chúng bung ra mọi phía, giống như bầy chuột hoảng loạn.
Việc buôn lậu của chúng thì cũng đầy rủi ro, nguy hiểm đến tính mạng, đến cẳng chân cẳng tay của chúng, chẳng khác chi của người lớn. Một bữa, trong lúc, đi dọc bờ tường, tôi nhìn thấy một vụ buôn lậu của trẻ con như vậy đang có mòi xuông xẻ. Thằng bé Do Thái lúc đó đã ở phía bên này của bức tường, và chỉ còn lo cõng hàng về bến, qua cống nước. Cái bóng của nó vừa mới ló ra, thì bất thình lình nó rú lên, và cùng lúc, tôi nghe có tiếng la thét giọng khàn khàn giận dữ của một tên Đức từ phía bên kia bức tường. Tôi vội vàng chạy tới cố kéo thằng bé thoát ra khỏi khu nguy hiểm, nhanh được phút nào quí phút đó, nhưng số mệnh như chế nhạo cả hai, bởi vì mặc dù những cố gắng của tôi, hai háng thằng bé nó bị mắc cứng vào phía bên trong ống nước. Tôi cố kéo cánh tay nhỏ bé của thằng nhỏ, trong khi những tiếng kêu la của nó mỗi lúc một thêm tuyệt vọng, và tôi có thể nghe thấy tiếng dùi cui của tên cảnh sát giáng lên phía thân thể còn kẹt lại của đứa bé, từ phía bên kia bức tường. Sau cùng, tôi cũng kéo được đứa bé ra khỏi cống mước, nhưng nó đã chết, xuơng sống lưng bị gãy nát.
Đúng ra là trại cấm (ghetto) không phụ thuộc vào thứ hàng lậu này, để tự nuôi sống. Hầu hết những bao bị tuồn qua tường, là đồ tặng từ những người Ba Lan cho trẻ em Do Thái nghèo đói nhất. Buôn lậu, thứ thiệt, và diễn ra đều đặn, được thực hiện bởi hai người cầm đầu là Kon và Heller. Dễ dàng hơn, và kể như chắc ăn. Cảnh sát ăn hối lộ chỉ cần vờ đi, tại những nơi, vào giờ giấc thoả thuận trước. Chỉ cần nháy nháy ra dấu, hoặc một ám hiệu nào đó, thế là trọn một đoàn xe chạy thẳng qua cổng, ngờ ngờ trước mũi họ, trên xe chở thực phẩm, rượu mắc tiền, thức ăn đồ uống thượng hạng, thuốc lá nhập từ Hy Lạp, xà bông, nước hoa Pháp, cứ thế mà vô chẳng gặp trắc trở gì hết.
Chúng sờ sờ trước mắt tôi hàng ngày - tôi muốn nói những món hàng cao cấp đó - tại tiệm cà phê Nowoczesna. Đây là nơi lui tới của những người giầu có, cùng bồ bịch của họ, trưng diện những món nữ trang, những viên kim cương đắt tiền. Tiếng mở sâm banh nghe bốp bốp. Những cô gái ăn mặc sặc sỡ, ngồi nơi bàn, nơi ba, nơi quầy rượu, phô bày nhan sắc, sự duyên dáng cho những kẻ cơ hội, chộp giựt, lợi dụng chiến tranh. Tôi mất hai ảo tưởng ở đây: niềm tin vào tính đoàn kết, tương trợ nói chung, của con người, và vào âm nhạc của người Do Thái.
Không một người ăn xin nào được bén mảng bên ngoài tiệm cà phê. Những người gác cửa lực lưỡng xua đuổi họ bằng gậy gộc. Những chiếc xe kéo, đôi khi từ xa tới, ghé tiệm, trên xe bước xuống là những người khách trong những chiếc áo lạnh bằng da thú, đầu đội mũ đắt tiền, choàng khăn lụa mùa hè của Pháp. Trước khi tới gần cửa, chẳng cần mấy người gác lực luỡng, chính họ dùng gậy gộc xua đám người nghèo đói chờn vờn xa xa, phía bên ngoài cửa tiệm, mặt người khách nào như người khách nấy, đều méo xệch vì giận dữ, hoặc ghê tởm đám người bần cùng. Theo cách nhìn của họ, lòng nhân ái chỉ làm cho con người yếu đi. Hãy nhìn kỹ đây: Nếu bạn chịu khó làm việc như tụi này, bạn sẽ hưởng như tụi này. Trời có cấm cửa ai đâu chứ" Và nếu bạn ngu quá đi, không biết cách kiếm ra đồng tiền, thì đó là lỗi của bạn, đừng đổ vạ cho ông trời!
Chỉ một khi thoải mái ngồi bên những chiếc bàn nho nhỏ, trong quán cà phê, cũng chỉ là nơi lui tới vì công chuyện, họ bắt đầu than van, lúc này sao khó kiếm tiền, và cái đám Mỹ Do Thái thật khó thương, chẳng lo cứu trợ giúp đỡ đồng bào mình còn kẹt lại. Bọn họ nghĩ, họ đang làm gì" Trong khi ở đây, người ta chết đói, không có lấy một mẩu bánh nhét vô họng. Những điều ghê gớm nhất cứ thế xẩy ra hàng ngày, vậy mà báo chí Mỹ chẳng thèm lên tiếng, và những tên chủ nhà băng Do Thái, đã qua được sông, chẳng thèm thúc đẩy người Mỹ tuyên chiến với tụi Đức, chuyện thật quá dễ đối với họ, những người nắm kho bạc của xứ sở này.
Chẳng ai thèm chú ý đến tiếng nhạc của tôi tại quán cà phê. Tiếng nhạc càng dâng cao, họ càng ăn to nói lớn. Như thể, ngày nào cũng có một cuộc tranh tài, giữa thính giả và người chơi nhạc, mày ồn hơn, hay tao ồn hơn" Có một lần, một trong những người khách đã sai một người bồi bàn tới yêu cầu tôi im tiếng nhạc trong chốc lát, để ông ta thử âm thanh của những đồng tiền hai mươi đô la mới mua được, coi chúng có phải vàng thiệt không. Ông ta gõ nhè nhẹ những đồng tiền lên mặt bàn bằng đá cẩm thạch, lấy ngón tay nhón chúng, đưa sát tai, cố nghe ra tiếng reo của vàng, thứ âm nhạc độc nhất mà ông ta ưa thích.
May cho tôi, cũng chẳng phải chịu lâu, không khí tiệm. Tôi có việc tại một quán cà phê khác hẳn tiệm trên, tại phố Sienna Street, nơi giới trí thức Do Thái thường lui tới để nghe tôi chơi nhạc. Chính tại đây tôi tạo được đôi chút tiếng tăm, như là một nghệ sĩ chơi nhạc, và làm quen một số bạn bè, với họ, tôi đã trải qua những giai đoạn dễ chịu có, mà khủng khiếp cũng có, sau này. Trong số những người lui tới đều đặn, có họa sĩ Roman Kramsztyk, một nghệ sĩ thuộc loại thiên bẩm, và là bạn của Artur Rubinstein và Karol Szymanowski. Ông lúc đó đang thực hiện một loạt tranh, ghi lại cuộc sống bên trong bức tường trại cấm (ghetto), chẳng hề hay, rằng mình sẽ bị sát hại, và hầu hết những bức tranh, bị mất.
Một người khách nữa của tiệm cà phê ở phố Sienna Street này, là một trong những con người phong nhã nhất mà tôi được gặp trong đời, Janusz Korczak. Ông là một văn nhân, biết gần hết tất cả những nghệ sĩ dẫn đầu của phong trào Ba Lan Trẻ. Ông nói về họ bằng một giọng say mê. Cách ông nói về họ vừa giản dị, trực tiếp, vừa sôi nổi, lôi cuốn người nghe. Ông không được coi là một trong những nghệ sĩ thượng đẳng, có lẽ là do những thành tựu của ông trong văn học không nổi bật, không có giá trị riêng biệt: chúng là những câu chuyện cho trẻ em và về trẻ em, đặc biệt là cho sự hiểu biết lớn lao của tâm hồn chúng. Giá trị thực của Korzak không phải ở những gì ông viết ra mà do điều này: ông sống như là ông viết. Nhiều năm trước đây, khi bắt đầu khởi nghiệp, ông đã dành trọn thời gian rảnh rỗi của mình cũng như mọi đồng tiền có thể có được, để lo cho trẻ em, và ông làm như thế cho tới lúc mất. Ông thành lập những viện mồ côi, tụ tập đủ tầng lớp trẻ em nghèo khó, tổ chức những buổi trình diễn (show) trên đài phát thanh, biến mình thành một người thật bình dân được nhiều người biết tới, không chỉ trong đám trẻ em, vì vậy mà có biệt danh là "Bác Sĩ Già". Khi cổng ghetto đóng lại, ông vào ở bên trong, mặc dù ông có thể cứu được mình, và ông tiếp tục nhiệm vụ của mình bên trong những bức tường, như là một người cha nuôi với chừng trên chục đứa trẻ Do Thái mồ côi, những đứa trẻ nghèo khổ nhất, trên thế gian không ai đoái hoài tới. Khi trò chuyện với ông tại quán cà phê ở phố Sienna Street, chúng tôi không nào tiên đoán được, cuộc đời ông sẽ khép lại, tuyệt vời hoàn hảo, hay là bằng một đam mê rạng ngời như thế nào.
Sau bốn tháng, tôi chuyển tới một quán cà phê khác, quán Nghệ Thuật (Sztuka),ở phố Leszno Street. Đây là quán cà phê lớn nhất trong ghetto, và đúng như cái tên của nó, không khí ở đây nhuốm mùi nghệ thuật. Có phòng trình diễn nhạc hoà tấu. Trong số ca sĩ có Maria Eisenstadt, một giọng ca tuyệt vời, và sẽ còn nổi tiếng tới hàng triệu thính giả bây giờ, nếu tụi Đức không sát hại cô, sau đó. Tôi thường chơi dương cầm sóng đôi với Andrzej Goldfeder, và rất thành công với những đoạn nhạc luân vũ Casanova Waltz của Ludomir Rózycki, lời ca đi kèm của Wladyslaw Szlengel. Nhà thơ Szlengel thường ngày có mặt, cùng với Leonid Fokczanski, nhạc sĩ Andrzej Wlast, kịch sĩ dân gian "Wacus Người Yêu Nghệ Thuật", và Pola Braunowna trong show trình diễn có tên là "Tờ Báo Sống", kể chuyện thường ngày bên trong ghetto, với giọng điệu châm chích người Đức. Ngoài phòng nhạc hòa tấu ra, còn có một bar, dành cho những người thích thưởng thức, thay vì mấy trò nghệ thuật, là rượu vang thiệt ngon, và những món ngon thật ngon, như món cánh gà hoặc món thịt bò Stroganoff. Phòng nhạc cũng như phòng ăn đều luôn luôn đông khách, cho nên họ trả lương cho tôi khá hậu, nhờ vậy, tôi có thể lo cho sáu mạng ăn trong gia đình, tuy rằng đôi khi cũng khá chật vật.


Gì thì gì, tôi đã trải qua những ngày tháng thật thoải mái tại quán Nghệ Thuật, có khá nhiều bạn ở đó, cùng nhau ba hoa đủ thứ chuyện, vào những giờ giải lao, mọi chuyện thật tuyệt vời, nếu đầu óc của tôi không bị luẩn quẩn bởi chỉ một chuyện, là buổi chiều trở về nhà. Cứ xế trưa là nó ám ảnh tôi.
Đó là mùa đông 1941-1942, thời tiết thật khắc nghiệt bên trong ghetto. Đúng là một biển trầm của người Do Thái, ở đó mọc lên vài hòn đảo nhỏ, là đám tương đối khá giả, gồm một dúm trí thức Do Thái, và một dúm khán thính giả vô tình, bất nhân. Một biển trầm, đói thường xuyên, lúc này thêm cái lạnh khủng khiếp, kiếm đâu ra tiền mà sưởi ấm trong nhà, ngoài ra còn khổ vì nạn chuột bọ gây bịnh. Thiên hạ ra đường mặc quần áo đầy rận rệp, lôi cả chúng vào xe điện, quán ăn, nhà hàng. Chỗ nào cũng có rệp. Chúng bò lồm ngồm nơi hè đường, cầu thang, từ trên trần những văn phòng công cộng rớt xuống đủ thứ người bên dưới, tới vì công chuyện. Chúng nằm trong những tờ báo mà bạn vừa giở ra, trong mớ tiền lẻ nơi túi bạn. Chúng có ngay cả trong những lát bánh mì bạn vừa mua. Và mỗi một con như thế mang trong mình mầm dịch.
Dịch chấy rận bùng nổ, chẳng làm sao thoát, ở trong ghetto. Những ngày cao điểm, số người chết lên tới năm ngàn người mỗi tháng. Giầu hay nghèo, ai ai cũng chỉ nói về nó. Nghèo thì tự hỏi, khi nào tới lượt mình, giầu thì lo làm sao có được thuốc chủng ngừa bịnh, của Bác sĩ Weigel. Nhà vi trùng học lừng danh được nhiều người biết tới, chỉ đứng sau Hitler. Đúng là Ông Thiện chống lại Ông Ác. Theo truyền thuyết, tức thứ dư luận truyền tai, người Đức đã bắt ông tại Lemberg, nhưng tạ ơn Trời Phật, chúng không giết, mà còn coi ông là một người Đức đáng kính. Cũng vẫn nghe người ta truyền tai nhau, thì chúng tặng ông một phòng thí nghiệm ngon lành, một villa tuyệt vời, một chiếc xe hơi cũng tuyệt vời không kém, chúng đặt ông vào trình trạng luôn có người của cơ quan mật vụ Gestapo canh gác, theo dõi ngày lẫn đêm, để bảo đảm ông không có cơ hội chuồn hơn là để ông bào chế theo kiểu dây chuyền thuốc chủng ngừa bệnh chấy rận nhằm sử dụng cho quân đội Đức tại vùng phía Đông đang bị dịch hoành hành. Lẽ dĩ nhiên, vẫn theo truyền thuyết rỉ tai, ông đã từ chối villa và xe hơi.
Tôi không biết sự thực về ông ra sao. Tôi chỉ biết, nhờ ơn Trời Phật, ông có thực, và không bị chúng giết, và sau khi nói cho tụi Đức biết công thức bào chế thuốc chủng, ông chẳng còn có ích đối với chúng nữa, và nhờ một phép lạ nào đó, chúng đã không đẩy ông vào một trong những lò thiêu tuyệt vời của chúng. Trong bất cứ trường hợp nào, nhờ vào phát minh của ông, và sự tham nhũng của người Đức, rất nhiều người Do Thái tại Warsaw đã thoát chết vì bệnh chấy rận, để chết vào một dịp khác, sau đó.
Bản thân tôi không chủng ngừa. Nhìn vào túi tiền, thấy khó mà chịu nổi một mũi chích, mà gia đình đâu chỉ có mình tôi, chẳng lẽ hưởng cái sống một mình"
Trong ghetto, thật không có cách chi để mà chôn kịp, con số người chết vì dịch chấy rận, so với mức tử vong cao như trên. Nhưng không lẽ cứ để người sống quây quần với xác chết, chung một mái nhàø" Cái khó ló cái khôn, một giải pháp sau cùng đã đề ra. Người chết bị lột hết quần áo, họ cũng đầu cần tới chúng nữa, trong khi người sống lại quá cần, sau đó, bó bằng giấy báo, rồi tuồn ra hè đường. Những xác chết như vậy thường phải đợi vài ngày, cho tới khi xe của ban Quản Trị lượm đi, thẩy vào những nấm mồ tập thể tại nghĩa địa. Xác người chết vì dịch hay vì đói đều được "đối xử đồng đều" như trên. Chính vì vậy mà mỗi lần từ giã quán cà phê về nhà vào buổi chiều, chỉ nghĩ tới không thôi, là tôi ớn xương sống, nổi da gà.
Tôi là một trong những người rời quán sau chót, cùng với viên quản lý, sau khi tính toán sổ sách, và trả tiền công cho tôi. Phố xá lúc này tối thui, và gần như chẳng có một mạng người, ấy là tôi muốn nói người sống. Với ngọn đuốc trên tay, tôi dò từng bước, cố nhận ra để đừng bị vấp ngã lên xác chết. Những cơn gió mùa đông thổi bạt người, lạnh rát má, lột tung những tờ báo, người chết trơ ra, cẳng chân cẳng tay khô khốc, bụng lép kẹp vì cái đói mang theo từ lúc còn sống, mặt bị răng ăn hết, hai lỗ mắt toang hoác như nhìn vào hư vô.
Vào thời gian đó, tôi chưa quen lắm, với cái chết, như là sau này. Tôi cứ thế chúi người về phía trước, chạy hết những con phố, vừa sợ vừa ghê, mong làm sao chóng về tới nhà. Mẹ tôi chắc là đang đợi, với chén rượu và cây kẹp gắp. Luôn lo lắng cho tình trạng sức khỏe của những người trong gia đình, vào thời gian dịch hoành hành, bà không để cho một ai bước qua ngưỡng cửa, chỉ sau khi nhặt những con rệp trên nón, trên quần áo, và bỏ chúng vào rượu.
Vào mùa xuân, khi đã thân với Roman Kramsztyk, thường tôi không về thẳng nhà khi rời quán cà phê, mà ghé chỗ ông ở, một căn hộ tại phố Elektpralna Street, chúng tôi nói chuyện gẫu cho tới khuya. Kramsztyk là một người thật may mắn, có được riêng cho mình một căn phòng nhỏ xíu, ở trên cùng một tòa nhà. Ở đây là cả một kho tàng cá nhân của ông, thoát khỏi số phận bị người Đức lột: một cái trường kỷ bọc "kelim", hai chiếc ghế cổ thật giá trị, một cái tủ từ thời Phục Hưng thật khả ái, một tấm thảm Ba Tư, mấy khẩu súng cũ, vài bức tranh, và những món nho nhỏ thu thập trong nhiều năm tại những vùng Âu Châu mà ông đã trải qua, mỗi một món như thế là một nghệ phẩm, đối với chính nó, và trước cặp mắt say sưa của người nhìn ngắm nó. Thật thích thú khi ngồi trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng nhạt tỏa ra từ cái chao đèn làm bởi chính tay chủ nhân, uống cà phê đen, và vui ba câu chuyện. Trước khi màn đêm buông xuống, chúng tôi ra ban công, đón tí gió mát. Không khí ở đây trong sạch hơn, so với dưới phố đầy bụi bặm. Giờ giới nghiêm tới gần, người ta tuần tự rút vào bên trong nhà, đóng mọi cửa nẻo, mặt trời mùa xuân xuống thấp dần, để lại một thứ ánh sáng mầu hồng trên những mái nhà bằng thiếc, bầy chim câu trắng bay qua bầu trời xanh, và mùi hoa lylac, như tìm ra con đường của nó, từ Vườn Saxon, vượt qua những bức tường, tới tận nơi chốn của những kẻ trầm luân là lũ chúng tôi.
Đây là giờ của những đứa trẻ và của những người khùng. Roman và tôi nhìn xuống phố, tìm bóng dáng vị "Phu nhân với những chiếc lông", một biệt danh mà chúng tôi dùng để gọi người đàn bà điên. Vẻ ngoài của bà thật không giống ai: đôi má sặc sỡ, nặng chịch, do trát đầy phấn, đôi lông mày cũng tô phấn, dầy chừng một phân, trễ xuống tận hai bên thái dương, một tấm màn cũ bằng nhung xanh phủ lên chiếc áo dài đen rách tả tơi, và một chiếc lông chim đà điểu lớn mầu hoa cà dựng lên từ chiếc nón bằng rơm, lắc la lắc lư theo nhịp bước, nhanh, nhưng lật đà lật đật, của bà ta. Bà ta chặn bất cứ người qua đường bà gặp, với nụ cười lịch sự và hỏi han về người chồng, đã bị người Đức sát hại.
"Xin tha lỗi cho tôi... ông hay bà có gặp Izaak Szerman" Một người đàn ông cao, đẹp trai, có bộ râu nhỏ mầu xám"" Nhìn người đối diện bằng con mắt dò hỏi nhưng chan chứa vọng, chờ mong câu trả lời, lẽ dĩ nhiên là không, hoặc một cái lắc đầu, bà thốt lên "Không gặp sao"", thật não lòng, nỗi đau đớn làm cho miệng bà ta méo xệch đi, nhưng sau đó vẩn là một nụ cười lịch sự, tuy đầy vẻ miễn cưỡng, "Tha thứ cho tôi, tha thứ cho tôi!", và bà ta lại tiếp tục vừa đi vừa lắc lư, khuôn mặt lộ vẻ buồn phiền, một phần, vì đã làm phiền người qua đường, phần khác, vì lẽ, làm sao mọi người lại không quen không biết người chồng cao ráo, đẹp trai, thật dễ thương với bộ râu nho nhỏ mầu xám của bà"...
Tiếp theo bà điên tới ông điên, một ông Rubinstein nào đó, cũng xuất hiện trên phố Elektoralna. Quần áo rách rưới, tả tơi, cầm cây gậy, vừa vung vẩy vừa nhẩy cà tưng, miệng lẩm bẩm như nói với chính mình. Trong ghetto, nhiều người biết đến ông điên. Bạn nghe ông điên la, trước khi thấy bóng dáng ông xuất hiện, "Đừng để bị đánh gục, bạn ơi!". Nhiệm vụ của ông điên là động viên tinh thần mọi người, bằng cách chọc cười bạn. Những lời nói diễu cợt, chọc quê, những nhận xét tiếu lâm của ông chạy vòng vòng trong ghetto. Một trong trò đặc sắc của ông điên, là tới gần lính gác Đức, mặt mày nhăn nhó, làm hề, rồi gọi họ bằng những từ như "Bọn trộm, bọn cướp, bọn bất nhân...", may làm sao, bọn lính gác chỉ coi đây là một trò cười giúp vui cho chúng, có khi còn quăng thuốc lá, tiền xu cho ông điên, như để thưởng cho những lời chửi rủa. Nói cho cùng, làm sao có thể để ý tới những lời nói khùng điên của một người... điên khùng"
Tôi không chắc là những tên lính gác người Đức đó, có suy nghĩ như tôi hay là không, và cho tới ngày này, tôi cũng không làm sao luận ra được một điều, là ông Rubinstein đó, có thực sự điên, và là một trong rất nhiều người đã mất đầu óc, trí nhớ của họ, vì những trò tra tấn hành hạ mà họ đã phải chịu đựng, hay giản dị chỉ là đóng trò điên, để trốn cái chết" Vả chăng, giả điên như vậy, liệu có thoát chết"
Những người điên không để ý tới giới nghiêm. Nó chẳng là gì đối với họ, cũng như những đứa trẻ. Những hồn ma trẻ con như thế, tới giờ này, là trồi lên từ những căn nhà hầm, ló ra từ những đường hẻm, hay những góc, xó cổng, nơi chúng ngủ, như được đánh thức bởi một chút xíu hy vọng, rằng biết đâu, sẽ nhận được chút xót thương, từ đồng loại, trước khi màn đêm hoàn toàn buông xuống, và cùng với giờ giới nghiêm, vét cạn bóng người trên đường phố ghetto. Chúng túm tụm tại những cột đèn, dưới những bức tường những tòa nhà, và cả trên mặt đường, đầu ngửng lên, nói bằng một giọng đều đều, tụi em đói. Những trẻ em biết chút âm nhạc, bài ca, thì hát. Giọng yếu ớt, run rẩy, thường là bài hát tả người lính trẻ hấp hối, bị đồng bạn bỏ rơi, nơi chiến trường, anh gọi, "Mẹ" trong lúc lịm dần đi. Nhưng bà không có đó, bà ở quá xa, và bà không biết rằng con bà đang chết, chỉ có mặt đất, cùng những bụi cây, đám cỏ của nó, ru người đàn ông đáng thương vào giấc ngủ ngàn đời, "Hãy ngủ ngon, con trai yêu quí của mẹ". Một cánh hoa từ trên cành cây rớt xuống ngực, và là cây thập giá độc nhất, vinh danh cho người vừa nằm xuống.
Những đứa trẻ khác cố đánh thức lương tâm người lớn. "Chúng con đói, đói lắm. Đã lâu lắm, chúng con chưa được ăn. Cho chúng con một mẩu bánh, nếu ông bà không có mẩu bánh, thì một củ khoai, củ tỏi cũng được, cho chúng con sống tới sáng mai." Nhưng củ khoai, củ tỏi để mà bố thí, thì thật là hiếm hoi, ở cả ngay những người có khoai có tỏi, và giả dụ như cứ giả dụ họ muốn bố thí, thì cũng không thể, vì trái tim của họ đã bị chiến tranh biến thành đá mất rồi.
Jennifer Tran chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hoan hỷ chào nhau cầu xưa quá bước Dặm đường im kẽ tóc với chân tơ Tan hợp cười òa. Kia vòm mây trắng Và bắt đầu. Và chấm hết. Sau xưa… . 4.2021 (Gửi hương linh bạn hiền Nguyễn Lương Vỵ, lễ 49 ngày)
Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng - chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến - Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường
Lời dịch giả: Đây là bức tâm thư của cựu tổng thống George W. Bush gởi người dân Mỹ trong lúc cả nước đang sôi sục sau cái chết của George Floyd.
NYC với mình như căn nhà thứ hai, thế mà đã hơn một năm rồi mới lên lại. Thường thì hay lên mùa Giáng Sinh, hay Tháng Hai mùa đông để coi tuyết ở Central Park, và tháng Mười Một để coi lá vàng. Lần nầy chỉ mới tháng ba, nhưng có lý do
Xúc động với kỷ niệm. Thơ và nhạc đã nâng cảm xúc về những cái đẹp mong manh trong đời... Đêm Nhạc Người Về Như Bụi, và buổi ra mắt Tuyển Tập 39 Văn Nghệ Sĩ Tưởng Nhớ Du Tử Lê đã hoàn mãn hôm Thứ Ba 14/1/2019.
chiều rớt/xanh/ lưỡi dao, tôi khứng! chờ ... mưa tới. Hai câu cuối trong bài “chiều rớt/xanh/lưỡi dao” anh viết cuối tháng 9/2019 như một lời giã biệt. Và, cơn mưa chiều 7.10.2019 đã tới, anh thay áo mới chân bước thảnh thơi trở về quê cũ. Xin từ biệt anh: Du Tử Lê!
trong nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (chỉ từ 10% đến 40%) . Chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam không cao
Theo bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2018, Việt Nam đứng hạng 117/ 180 với mức điểm 33/100. Bao giờ mà chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại thì “nạn nhũng nhiễu lạm thu” sẽ vẫn còn được bao che và dung dưỡng khắp nơi, chứ chả riêng chi ở Bộ Ngoại Giao
Chính phủ Hoa Kỳ đã hứa tài trợ 300 triệu đô la để làm sạch môi trường bị nhiễm chất độc da cam của phi trường Biên Hòa và hôm 5 tháng 12 là bắt đầu thực hiện việc tẩy rừa tại khu vực này, theo bản tin hôm 6 tháng 12 của báo Tuổi Trẻ Online cho biết như sau.
Hơn 1.000 người có thể đã bị giết bởi lực lượng an ninh ở Iran trong các cuộc biểu tình gần đây, theo một quan chức cấp cao của bộ ngoại giao cho biết hôm Thứ Năm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.