Bạn,
Theo SGGP, tại tỉnh Thái Bình có làng nghề chạm bạc Đồng Xâm hình thành từ hơn 2,000 năm trước, và đa số những người làm thợ kim hoàn tại VN đều có gốc gác không gần thì xa với làng này. Tuy nhiên, tới nay, vẫn chưa có những tài liệu chính thức nào nói về lịch sử của nghề chạm bạc ở Đồng Xâm. Từ bao đời nay, ngoài cây lúa ra, người làng Đồng Xâm còn làm nghề chạm bạc và đóng cối xay tre. với nghề chạm bạc, người Đồng Xâm có tục lệ không truyền nghề cho con gái. Với con trai thì cũng không hẳn ai cũng được truyền, chỉ có những người có khả năng giữ được nghề mới được cha mẹ truyền nghề cho. Báo SGGP viết như sau.
Khoảng mười năm trở lại đây, nghề đóng cối xay tre bị mai một dần vì không còn ai dùng cối xay nữa. Còn với nghề chạm bạc thì chẳng những việc truyền nghề không theo những quy định ngặt nghèo xưa kia, nghĩa là ai làm cũng được, mà còn được lan truyền rộng rãi sang các làng khác. Không chỉ có chạm bạc, người ta đã chuyển sang chạm đồng rồi mạ bạc hoặc vàng. Số người làm nghề đã lên tới gần 2 ngàn người, trong đó có hơn 200 người đi làm thợ cho các hiệu kim hoàn trong cả nước. Có tới 80% số hộ có người làm nghề thủ công chạm bạc trong 120 tổ và một công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo chân một viên chức xã, phóng viên đến nhà ông Phạm Văn Nhiêu, một cây đại gia chạm bạc không chỉ của thôn Tả Phụ mà còn là của cả xã Hồng Thái. Làm nghề từ năm mười bốn tuổi, chỉ có mười năm đi xa phải tạm xa nghề, năm nay đã tròn sáu mươi tuổi, ông Nhiêu vẫn gắn bó với cái nghề truyền thống của quê hương. Xưởng sản xuất của ông đặt ở mấy gian nhà ngang lúc nào cũng rộn tiếng kêu lách cách của búa chạm. So với ông Phạm Văn Nhiêu, chàng trai Nguyễn Văn Tuân ở làng Đồng Xâm chẳng những trẻ hơn 24 tuổi, mà xưởng sản xuất của anh còn ồn ã hơn, sản phẩm của anh cũng đồ sộ hơn. Trong căn nhà vừa làm nhà ở, vừa là nơi tiếp khách của người tổ trưởng Nguyễn Văn Tuân không có tủ kính bày hàng mẫu. Cả khoảng sân rộng cũng được che tấm bạt lớn để làm hàng.
Hôm phóng viên về Đồng Xâm, toàn bộ thợ chạm của tổ này đang được huy động vào làm mặt hàng trống đồng cho một nhà bảo tàng ở miền Trung. Theo bản hợp đồng, có 26 chiếc trống đồng được sản xuất ở đây. Mặt trống có đường kính 1.8m, trên đó có trang trí hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Tang trống cũng được làm bằng đồng, nhưng được gia cố cho thành trống cứng hơn. Mấy người thợ gò, hàn thì bưng bịt khẩu trang rất cẩn thận. Còn ở phía sân sau, khoảng gần chục cô gái cùng ngồi chạm trổ các hoa văn trên một chiếc mặt trống đã được láng bằng si đỏ thì chẳng hề phải bưng bít gì, mặt cô nào cũng tươi rói. Những vòng tròn mềm mại, những con chim lạc, những hình người lao động, v.v... cứ hiện dần, hiện dần dưới những mũi chạm của các cô gái.
Bạn,
Cũng theo báo SGGP, các tổ sản xuất trong làng không được trực tiếp bắt tay với khách hàng mà phải thông qua từ hai đến ba "khâu trung gian". Khi giao hàng, các tổ chỉ được trả giá 3.5 triệu đồng cho một chiếc trống đồng. Với số tiền đó, tổ sản xuất chỉ vừa đủ để trả công cho người lao động, chứ chưa hề có khấu trừ hao hụt nhà xưởng và thiết bị máy móc. Trong khi đó, giá trị thực của mỗi chiếc trống đồng này phải lên tới 12 triệu đồng…. Trong tình hình hiện nay, những người làm nghề chạm trổ trên kim loại ở Đồng Xâm vẫn còn nhiều lo toan cho đời sống hàng ngày.
Theo SGGP, tại tỉnh Thái Bình có làng nghề chạm bạc Đồng Xâm hình thành từ hơn 2,000 năm trước, và đa số những người làm thợ kim hoàn tại VN đều có gốc gác không gần thì xa với làng này. Tuy nhiên, tới nay, vẫn chưa có những tài liệu chính thức nào nói về lịch sử của nghề chạm bạc ở Đồng Xâm. Từ bao đời nay, ngoài cây lúa ra, người làng Đồng Xâm còn làm nghề chạm bạc và đóng cối xay tre. với nghề chạm bạc, người Đồng Xâm có tục lệ không truyền nghề cho con gái. Với con trai thì cũng không hẳn ai cũng được truyền, chỉ có những người có khả năng giữ được nghề mới được cha mẹ truyền nghề cho. Báo SGGP viết như sau.
Khoảng mười năm trở lại đây, nghề đóng cối xay tre bị mai một dần vì không còn ai dùng cối xay nữa. Còn với nghề chạm bạc thì chẳng những việc truyền nghề không theo những quy định ngặt nghèo xưa kia, nghĩa là ai làm cũng được, mà còn được lan truyền rộng rãi sang các làng khác. Không chỉ có chạm bạc, người ta đã chuyển sang chạm đồng rồi mạ bạc hoặc vàng. Số người làm nghề đã lên tới gần 2 ngàn người, trong đó có hơn 200 người đi làm thợ cho các hiệu kim hoàn trong cả nước. Có tới 80% số hộ có người làm nghề thủ công chạm bạc trong 120 tổ và một công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo chân một viên chức xã, phóng viên đến nhà ông Phạm Văn Nhiêu, một cây đại gia chạm bạc không chỉ của thôn Tả Phụ mà còn là của cả xã Hồng Thái. Làm nghề từ năm mười bốn tuổi, chỉ có mười năm đi xa phải tạm xa nghề, năm nay đã tròn sáu mươi tuổi, ông Nhiêu vẫn gắn bó với cái nghề truyền thống của quê hương. Xưởng sản xuất của ông đặt ở mấy gian nhà ngang lúc nào cũng rộn tiếng kêu lách cách của búa chạm. So với ông Phạm Văn Nhiêu, chàng trai Nguyễn Văn Tuân ở làng Đồng Xâm chẳng những trẻ hơn 24 tuổi, mà xưởng sản xuất của anh còn ồn ã hơn, sản phẩm của anh cũng đồ sộ hơn. Trong căn nhà vừa làm nhà ở, vừa là nơi tiếp khách của người tổ trưởng Nguyễn Văn Tuân không có tủ kính bày hàng mẫu. Cả khoảng sân rộng cũng được che tấm bạt lớn để làm hàng.
Hôm phóng viên về Đồng Xâm, toàn bộ thợ chạm của tổ này đang được huy động vào làm mặt hàng trống đồng cho một nhà bảo tàng ở miền Trung. Theo bản hợp đồng, có 26 chiếc trống đồng được sản xuất ở đây. Mặt trống có đường kính 1.8m, trên đó có trang trí hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Tang trống cũng được làm bằng đồng, nhưng được gia cố cho thành trống cứng hơn. Mấy người thợ gò, hàn thì bưng bịt khẩu trang rất cẩn thận. Còn ở phía sân sau, khoảng gần chục cô gái cùng ngồi chạm trổ các hoa văn trên một chiếc mặt trống đã được láng bằng si đỏ thì chẳng hề phải bưng bít gì, mặt cô nào cũng tươi rói. Những vòng tròn mềm mại, những con chim lạc, những hình người lao động, v.v... cứ hiện dần, hiện dần dưới những mũi chạm của các cô gái.
Bạn,
Cũng theo báo SGGP, các tổ sản xuất trong làng không được trực tiếp bắt tay với khách hàng mà phải thông qua từ hai đến ba "khâu trung gian". Khi giao hàng, các tổ chỉ được trả giá 3.5 triệu đồng cho một chiếc trống đồng. Với số tiền đó, tổ sản xuất chỉ vừa đủ để trả công cho người lao động, chứ chưa hề có khấu trừ hao hụt nhà xưởng và thiết bị máy móc. Trong khi đó, giá trị thực của mỗi chiếc trống đồng này phải lên tới 12 triệu đồng…. Trong tình hình hiện nay, những người làm nghề chạm trổ trên kim loại ở Đồng Xâm vẫn còn nhiều lo toan cho đời sống hàng ngày.
Gửi ý kiến của bạn