Thực vậy, từ thập niên 90, hàng năm khoảng 1 triệu dân vào Mỹ. Đa số là vì giấc mộng Mỹ hơn là vì tỵ nạn chính trị như người Việt Nam. Tuyệt đại đa số là dân Á Châu và Mễ Tây Cơ, chớ không phải người Âu Châu da trắng. Do vậy dân Mỹ cũng ngại và sanh bịnh xenophobia (Hy Lạp: Bịnh sợ cái gì khác lạ). Bịnh đó là nguyên nhân của đề luật 187, California cắt mọi trợ cấp xã hội đối với dân vào Mỹ lậu (kể cả đối với trẻ đi học) và của đề luật buộc chỉ được học tiếng Anh ở trường mà thôi, người Việt mình, vì phong cảnh, khí hậu. California gợi nhớ quê nhà - chỉ cần ra bờ biển ngó ra bên kia bờ Thái bình dương là quê cha đất tổ mến yêu - nên quần cư đa số ở bang này, cũng thấy lo Mỹ sẽ siết chặc chính sách nhập cư. Lo cũng có lý. Vì trong cận sử Mỹ, người Hoa đã từng bị cấm làm một số nghề, bị xem là Họa Da Vàng. Người Nhựt đã từng bị tập trung cải tạo sau khi căn cứ hải quân Trân châu cảng bị Nhựt bỏ bom trong thế chiến thứ hai. Và gần đây chế độ an sinh xã hội ngày càng siết chặc thêm.
Nhưng các lo ngại ấy chỉ là biểu kiến. Thực chất của vấn đề nhập cư là kinh tế, là công xá. Suốt trong chiều dài lịch sử Mỹ, việc cho nhập cư chánh yếu là tìm nhân công giá rẻ. Người Hoa đến Mỹ ồ ạt lúc cần người da vàng ở California. Người Nhật đến Mỹ ồ ạt sau đệ nhị thế chiến vì Mỹ cần nhân công cho nền kỹ nghệ sau khi Âu châu bị chiến tranh tàn phá.
Hiện tại quy luật kinh tế vẫn là qui luật chi phối chính sách nhập cư. Ai cũng biết trong giá thành sản phẩm lao động hay công xá chiếm 70%. Ông Thần Tài Greenspan của Mỹ luôn luôn kềm hãm sự tăng lãi xuất để tránh nguy cơ lạm phát. Mà kimh tế Mỹ hiện đang tăng trưởng mạnh. Sự tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh thuê công nhân. Cạnh tranh thuê công nhân sẽ kéo theo tăng công xá. Tăng lương là kéo theo lạm phát. Muốn tránh lạm phát do hoặc tăng lãi suất hoặc tăng lương, cách an toàn nhứt là cho nhập cư một số công nhân giá vừa rẻ vừa dễ thu hút từ Á châu và Nam Mỹ vào. Nên mức thất nghiệp lý tưởng 4% của Mỹ vẫn giữ được rất lâu dài trong thập niên 90. Việc nhập cư là nắp an toàn cho nền kinh tế Mỹ. Nền kimh tế Mỹ cần dân nhập cư là một nguồn nhân công giá rẻ. Người nhập cư cần Mỹ để có việc làm dễ dàng, lương bổng khá hơn. Hai bên đều có lợi. Cây đa cậy ông thần và Ông Thần cũng cậy cây đa.
Cho nên, trở lại vấn đề của chúng ta, người Việt dù tỵ nạn hay di dân không nằm ngoài chính sách nhập cư ấy. Nếu người tỵ nạn 65 tuổi - tuổi được nghỉ ngơi - được hưởng tiền già, di dân đến tuổi ấy, Cali vẫn đãi ngộ bằng một số tiền tương đương chỉ khác tên gọi thôi. Đến 65 tuổi mà chưa “đậu quốc tịch” cũng chả mất đồng nào nhưng được trả dưới dạng “ứng trước”. Đó chỉ là cách nói hơn là thực chất của vấn đề. Thực chất của vấn đề là một chánh quyền do dân, của dân, vì dân có nghĩa vụ đãi ngộ người lớn tuổi cả đời đóng góp cho xã hội. Đóng góp có thể là đóng thuế, đi lính, công tác v.. v.. Quan điểm xem người lớn tuổi lãnh trợ cấp xã hội là gánh nặng xã hội, là ân huệ hoàn toàn trái với tinh lý “quốc gia an sinh” (welfare state) của Mỹ. Cũng như quan điểm “thi đậu” quốc tịch Mỹ của một vài giám khảo còn thiên kiến chủng tộc hay một số thí sinh tự ti mặc cảm là lạc hậu. Một di dân vào quốc tịch Mỹ là một niềm vui cho chính sách thể chế, quốc gia Mỹ. Do vậy Tổng Thống Hoa Kỳ mới có thơ khen ngợi.
Cây đa không thần thì sẽ hết linh. Thần không cây đa thần mất gốc. Nên cây đa phải cậy thần và thần cũng phải cậy đa như dân nhập cư nhờ Mỹ để giấc mộng Mỹ thành sự thật. Và Mỹ nhờ nhập cư để đủ nhân công làm nắp an toàn tránh lạm phát.