Hôm nay,  

Vỏ Bầu Khô Của Dân Tộc

19/09/199900:00:00(Xem: 4814)
Thư của bạn vẫn than thở rằng vật dụng trong nhà bạn toàn những thứ kim loại, nhựa, thủy tinh... nghĩa là các thứ chế biến nhân tạo. Và bạn bảo rằng nhớ tới những chiếc ghế mây, giường tre thuở nhỏ khi chúng ta còn ngồi chung bậc tiểu học. Bạn bảo rằng thiên nhiên như dường vắng bóng tại Hoa Kỳ, chỉ trừ ngoài cửa sổ. Bạn đừng buồn, xã hội nào cũng có giá của nó. Niềm vui thường khi không đo bằng các vật dụng đâu, mà phải là môi trường để mình tự khẳng định mình, điều mà VN mình đang thiếu vắng vì xã hội đã quá ngột ngạt. Thôi để tôi trích đoạn một bài viết về quả bầu, một trong những kỷ niệm mà bạn từng có thời chơi đùa, từ báo trong nước như sau.
Quả bầu ngọt để ăn, còn bầu đắng được nhiều dân tộc ở Việt Nam trồng lấy quả, chế biến thành vật dụng trong đời sống hằng ngày. Tùy từng chức năng sử dụng mà vỏ bầu được chế biến cho phù hợp. Vỏ bầu khô có thể đựng nước uống, đựng rượu, thức ăn, hạt giống hoặc làm bát, làm muôi, gáo, phễu... Vỏ bầu khô còn gắn với đời sống tinh thần của các dân tộc: được chọn làm hộp cộng âm cho nhiều loại nhạc cụ khác nhau.
Bầu là loại cây dễ trồng nên nó có mặt ở khắp nơi, ở miền núi, cao nguyên và trung du nó được trồng trên nương, trên rẫy. Dưới đồng bằng bầu lại được trồng ngay trong vườn hay ngoài ruộng. Có hai loại bầu: bầu ngọt được trồng để lấy quả làm thức ăn. Bầu đắng có vỏ dày và cứng được dùng để chế ra các đồ vật phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Ngay từ khi bầu ra hoa kết trái, người ta đã chọn những quả có hình dáng đẹp theo ý thích và phù hợp với từng loại vật dụng định chế tác, rồi để cho quả bầu thật già, cắt về làm thành vỏ bầu khô. Về cơ bản, công việc này phải trải qua hai bước chính: loại bỏ ruột và tạo mầu cho quả bầu. Các dân tộc tương đối thống nhất với nhau ở cách dùng nước để loại bỏ ruột. Với việc tạo mầu, mỗi dân tộc, mỗi khu vực lại có cách làm riêng, hoàn toàn hoặc ít nhiều khác nhau. Ta thấy những phương pháp xử lý chính như sau:
- Khoét lỗ, đổ nước vào, đồng thời treo trái bầu lên trên gác bếp, từ hai đến ba tháng. Sau đó đem rửa sạch vỏ và xóc sạch ruột. Theo cách này vỏ bầu thường có mầu vàng nâu.
- Ngâm quả bầu xuống bùn ao, chừng hai tháng lấy lên rửa sạch đem phơi nắng cho khô hẳn. Với cách làm đó vỏ bầu thường có mầu đen.
- Sau khi loại bỏ ruột, đem vỏ bầu luộc trong nước sôi rồi phơi khô, mầu vàng óng của vỏ bầu già sẽ được giữ nguyên.
- Cạo bỏ lớp vỏ cứng bên ngoài quả bầu, dùng lá rừng nhuộm mầu thích hợp rồi đánh bóng hay quét một lớp dầu lên mặt ngoài, làm tăng vẻ đẹp cho đồ vật.
Vỏ bầu sau khi được xử lý qua các công đoạn trên thường không bị mối mọt, có độ bền chắc cao, không thấm nước. Đó là nguyên liệu chính, quan trọng để chế ra hàng loạt sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của cư dân các dân tộc.
Vỏ bầu khô gắn với đời sống vật chất chủ yếu gồm các đồ đựng, đồ múc, đồ rót của các dân tộc: Xơ Đăng, Ba Na, Ê Đê, Rơ Măm, Cơ Tu... trên Trường Sơn - Tây Nguyên; Thái, Dao, La Hủ, Sán Chay, La Ha, Khơ Mú, Kháng, Lào, Mông... ở miền núi phía bắc.

Trước tiên bầu được tạo lỗ làm miệng của đồ đựng. Tùy vào công dụng và chức năng của từng loại vật phẩm mà miệng của chúng có độ lớn nhỏ và vị trí cao thấp khác nhau. Có quả bầu được cắt bỏ cuống để tạo miệng, có quả lại được khoét miệng bên cạnh cuống, chếch về một bên, nhiều quả miệng lại nằm ở bên cạnh sườn... Nắp của sản phẩm tùy thuộc vào từng vỏ bầu hay chức năng của nó. Với những vỏ bầu có miệng nhỏ, nắp thường là lõi ngô hay các loại lá cây cuốn lại. Một số dân tộc ở miền núi phía bắc và Trường Sơn - Tây Nguyên dùng những quả bầu tròn để đựng cơm hay thức ăn mang đi làm nương. Nắp của chúng thường được làm bằng một miếng gỗ mỏng, tròn đậy kín trên miệng bầu hay chỉ là một chiếc lá rừng. Nếu dùng nắp gỗ thì trên vỏ bầu và nắp đậy được dùi hai lỗ đối xứng, sau đó luôn dây qua làm quai xách.
Nhiều dân tộc dùng vỏ bầu đựng nước sinh hoạt. Loại này thường to, thuôn dài để có thể chứa được nhiều nước. Vỏ bầu dùng đựng rượu khi tiếp khách lại tròn nhỏ, có cuống dài, miệng nhỏ. Đặc biệt nhiều quả có hình nậm rượu. Ngoài ra bầu còn đươc sử dụng để đựng hạt giống quý như: thóc, ngô, đỗ, lạc, vừng, bí... Để bảo vệ cho vỏ bầu tránh va đập và thuận tiện khi mang vác đi xa, một số dân tộc như Dao (Tuyên Quang), Thái (Nghệ An), Cơ Tu (Quảng Nam - Đà Nẵng)... còn dùng dây rừng đan, kết tạo vỏ bọc bên ngoài. Đặc biệt với dân tộc Cơ Tu, chúng được làm khá cầu kỳ và cẩn thận. Họ còn làm thêm đế cho vỏ quả bầu có thể đặt vững trên mặt đất, làm thêm dây quai để treo khi cần thiết...
Vỏ bầu khô gắn với đời sống tinh thần gồm những vật dụng trong nghi lễ tôn giáo và trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, chủ yếu tập trung ở các dân tộc: Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Mạ, M’Nông, La Hủ, Kháng, Giáy, Dao, Tày.
Trường Sơn - Tây Nguyên là khu vực có nhiều dân tộc sử dụng vỏ bầu làm nhạc cụ. Vỏ bầu được chọn thường có thân tròn, miệng thu nhỏ. Chúng được cắt bỏ phần cuống và phần đáy rồi được buộc vào cần đàn bằng dây. Hộp âm không bịt kín như cây đàn tính mà để trống một mặt trên hay cả hai phía. Thông thường đàn có một hộp âm, nhưng có những dân tộc lại lắp hai hộp âm ở hai đầu, một hộp to và một hộp nhỏ như đàn tinh nưng của dân tộc Ba Na.
Vỏ bầu khô còn có mặt trong các nghi lễ tôn giáo, khi gặp chuyện rủi ro họ dùng vỏ bầu khô để cầu đến thần linh. Dân tộc Dao (Tuyên Quang) dùng nửa quả bầu khô làm chiếc thuyền trong lễ cúng cầu hồn cho trẻ em khi bị ốm đau. Người ta quan niệm mỗi đứa trẻ ra đời đều có một bà mụ trông nom nên khi chúng ốm đau, họ phải cầu xin bà cứu giúp, mong cho đứa bé được khỏe mạnh. Trong lễ cúng này, người Dao cắt hình đứa trẻ cho vào nửa quả bầu - chiếc thuyền, rồi thả vào một chậu nước để chúng đi tìm người mẹ sinh tạo. Người Khơ Mú thường treo vỏ bầu khô vào cây cột chính ở gian ma nhà và xem đó là vật linh thiêng vì loài người vốn được sinh ra từ “quả bầu mẹ”.
Theo dân tộc Bru - Vân Kiều thì quả bầu còn là nơi trú ngụ của hồn lúa, được treo bên dưới bàn thờ ma nhà. Người dân thường xuyên tổ chức cúng vào những thời điểm quan trọng trong mùa vụ: trước ngày trỉa lúa, lúc làm cỏ và khi thu hoạch... Trong các dịp gia chủ tổ chức lễ cúng, lễ vật là trâu thì họ lại bỏ thêm vào vỏ bầu 8 hạt thóc...
Cho đến nay vỏ bầu vẫn được hầu hết các dân tộc ở Việt Nam sử dụng. Ở người Kinh, mặc dù hiện vỏ bầu hầu như đã vắng bóng trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, nhưng nó vẫn còn trong tâm thức của cả dân tộc với tên gọi đàn bầu, với hình ảnh bầu rượu nắm nem, bầu rượu túi thơ, với quả bầu trong bộ bát bảo, tượng trưng cho sự sung mãn...
Bạn thấy chưa. Chuyện về quả bầu thơ mộng như vậy. Nhưng nền văn minh rồi sẽ đẩy lui nó dần vào quá khứ, khi các ly nhựa, nồi nhôm ra đời. Bạn đừng cà nanh nữa, cứ lâu lâu tưởng nhớ cũng đủ thôi. Chúc bạn vui.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.