Ngoài nhiệm vụ phối hợp với LLĐB Việt Nam điều hành kế hoạch, các toán trong bộ phận Biệt phái B-52 còn đảm trách các chuyến công tác tình báo bí mật theo yêu cầu của bộ chỉ huy Yểm trợ Quân sự (MACV) và bộ Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN. Theo tài liệu của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ, trong giai đoạn đầu, các hoạt động thu thập tình báo đã gặp nhiều khó khăn và không tránh được tổn thất như một số chuyến công tác tình báo sau đây của các toán thuộc B -52 tại vùng địch trong năm 1966.
* Chuyến công tác xâm nhập vào mật khu An Lão:
Vào đầu năm 1966, trước khi khởi động cuộc hành quân Masher, Sư đoàn 1 Không kỵ Hoa Kỳ yêu cầu Kế hoạch Delta cung cấp thông tin tình báo trong thung lũng An Lão ở phía Tây của tỉnh Bình Định. Để thực hiện công tác, một liên toán của bộ phận Biệt phái phái B-52 do thiếu tá Charlie Beckwith rời Nha Trang trên một phi cơ C-123 và hạ cánh xuống Bồng Sơn ngày 26 tháng 1-1996. Kế hoạch không dự trù và chuẩn bị đầy đủ cho các tình báo viên nên họ đã phải xâm nhập vào vùng hành quân trong ngày hôm sau dưới thời tiết không thuận lợi.
Theo kế hoạch, toán Eskimo của thượng sĩ 1 Henry A. Keating gồm 5 trung sĩ LLĐB. Ngày 28-1, toán này chạm súng với CQ, 1 hạ sĩ quan LLDB Mỹ tên là Dupnis bị thương nặng ở đầu vì miễng lựu đạn. Sau đó, toán trèo lên một cao điểm nhìn xuống thung lũng gọi máy xin bốc về. Trực thăng bay vòng vòng hai tiếng đồng hồ dưới cơn mưa tầm tã mà vẫn không tìm ra địa điểm của toán. Sau khi trở về để đổ xăng, trực thăng bay trở lại và tìm ra vị trí của toán, nhưng không đáp xuống được nên đã thả thang dây xuống bốc cả toán đang chờ dưới đám cỏ cao.
Toán thứ hai có danh hiệu là Capitol, gồm 6 LLĐB Mỹ do thượng sĩ 1 Frank R. Webber Jr chỉ huy đã len lỏi trên vài đường mòn trong ngày 28-1, nhưng rồi bị dân cưa cây trong rừng gặp được. Ngay sau đó, để tránh sự phát hiện của địch quân, thượng sĩ Webber dẫn cả toán đến mô đất cao để đóng quân qua đêm. Mưa lớn và sương mù dày dặc gây khó khăn lớn cho toán khi len lỏi qua các bụi rậm lớn dầy dặc đến nỗi họ phải bò. Đến trưa ngày 29-1, toán đến một chỗ quang đảng nhỏ, chuẩn bị vị trí phòng thủ rồi chuẩn bị thảo luận sẽ làm gì kế tiếp. Đột nhiên, những tràng súng máy của CQ ria tới, thượng sĩ Jeese L.Hancok tử thương ngay tại chỗ, trung sĩ 1 George A. Hoagland té nhào ra sau, bị thương nặng, hấp hối. Cả trưởng toán Webber và thượng sĩ Marlin C.Cook cũng bị thương ngay ở loạt đạn đầu.
Rừng chung quanh quá rậm nên không ai biết hướng đạn từ đâu tới. Thượng sĩ Cook bị trúng đạn ở bụng và lưng. Dù bị tê liệt từ eo trở xuống, ông cũng bắn trả. Cánh tay dưới của trưởng toán Webber bị nát nhưng ông cũng phản xạ được, trong khi trung sĩ Charles F. Hiner chạy đến vị trí của thượng sĩ Cook chụp lấy máy truyền tin ở sau lưng ông ta và gọi máy về. Trung sĩ nhất Donald L. Dotson bị bắn qua ngực nên đã tử trận trong khi cố di chuyển qua bãi trống.
Trung sĩ Hiner liên lạc được với một phi cơ thám thính và chỉ đường. Sau khi nhận ra lựu đạn khói của Hiner, phi cơ thám thính gọi 2 trực thăng võ trang đến. Sau vài phút đầu gặp khó khăn để tìm ra địa điểm của toán, hai trực thăng bay trên đầu và theo lời khẩn khoản của Hiner, đã xạ kích ngay chung quanh anh. Hiner bị thương nhưng hỏa lực CQ vẫn dữ dội. Webber bò lên đến bìa bãi trống lôi Cook về tảng đá chỗ của Hiner. Ít phút sau, Cook tử nạn vì trực thăng ria đạn nhầm vào bãi trống.
Lúc này, toán chỉ còn Webber và Hiner sống và cả hai đều ngất xỉu vì mất máu, riêng Hiner xỉu trên máy truyền tin nhưng rồi tỉnh lại kịp lúc để nghe toán phản công của trung úy Holland đang tìm đường đến nhưng cần một ám hiệu khói. Mười 10 phút sau, toán cứu nguy đến nơi, thang giây được thả xuống để bốc 2 hạ sĩ quan bị thương và 4 hạ sĩ quan tử trận ra khỏi khu rừng.
Toán thứ ba, còn được gọi là Roadrunner, do thượng sĩ Marcus Huston chỉ huy. Cả toán giao chiến với CQ ở gần một con suối nhưng rồi thoát được len lỏi lên một ngọn đồi vào ngày 28-1 và bị CQ tấn công lần thứ hai. Trung sĩ Frank Badolati bị trúng đạn ở cánh tay trái phần trên nặng đến nổi muốn lìa ra. Trung sĩ Cecil Hodgson thì khẩu tiểu liên bị cướp cò nên súng rớt. Các hạ sĩ quan đã khai hỏa yểm trợ cho toán thoát khỏi khu vực. Trung sĩ Badolati năn nỉ toán để anh ở lại hầu chạy thoát thân. Một cành cây được chặt để băng bó cho tay anh rồi chích morphine 4 lần trong cuộc rút lui. Toán chạy đến một mỏm đá mới rồi gọi máy về nhưng ngay sau đó phải phân tán vì hỏa lực địch. Huston và trung sĩ McKeith dìu Badolati theo mặc dù anh ta phản đối, chiến binh này hiểu rằng các đồng đội không chịu đi nếu anh ta không cất bước nên anh buộc lòng phải di. Cuối cùng thương tích không cho anh ta đi nổi nên anh bảo Huston: hãy tự thoát đi. Huston và Mckeith đặt Badolati nằm giữa đống đá cuội gần một con suối khe núi, chuẩn bị quyết tử sau cùng. Badolati tắt thở hai giờ sau. Toán đặt xác anh tại một khe suối rồi tiếp tục di chuyển cho đến khi trời tối. Sáng hôm sau, Huston và McKeith được 1 L-19 tìm ra và trực thăng bay tới bốc về.
Một phân toán thứ hai của Roadrunner dưới quyền chỉ huy của trung sĩ Wiley W. Gray cũng bị CQ tấn công trước khi tới được điểm bốc về. Gary nghe trung sĩ Ronald Terry hét lên là đã bị trúng đạn nên quay lại nhìn thấy anh ta hai tay ôm chặt người. Chỉ trong vòng vài giây Terry bị bắn nữa và chết. Gray không thể nào tìm ra Hodgson, đột nhiên trực thăng võ trang bay trên đầu lại xạ kích để bốc Huston và Mc Keith thuộc phân toán 1 (đã trình bày ở trên). Gray bối rối nên không ra mặt để phát tín hiệu cấp cứu, đến gần chiều anh mới bắn đạn lửa ra dấu cho trực thăng đến bốc. Về phần thiếu tá Beckwith-chỉ huy liên toán, ông đã bị thương trên trực thăng trong lúc điều động quân về và được thay thế.
* Cuộc đột kích vào chiến khu C và Khe Sanh:
Sau cuộc hành quân 2-66, Kế hoạch Delta được chấn chỉnh và thi hành nhiều công tác tình báo khắp Cao nguyên Trung phần qua Vùng 1 và Vùng 2 chiến thuật. Trận đánh khốc liệt khác lại xảy ra trong cuộc hành quân 10-66 (từ 9-8 đến 5-9-1966) khi bộ phận Delta được đặt dưới quyền điều động của lữ đoàn 196 Bộ binh Hoa Kỳ tại chiến khu C. Trong cuộc hành quân này, các toán Delta xâm nhập vào hệ thống đường mòn chằng chịt của Sông Bé và Tây Ninh thông thương với Căm Bốt. CQ cố né giao tranh với LLĐB vì sợ các cuộc oanh kích, nhưng vào buổi tối ngày 27-8, bộ chỉ huy Hành quân mất liên lạc với toán 2.
Trong khi điều động các toán, thiếu tá Robert E. Luttrell, chỉ huy phó toán Biệt phái B-52, được một phi cơ báo về cho biết đã nhìn thấy khói đỏ và dùng gương phản chiếu xuống họ. Các trực thăng được phái tới và trung sĩ Quân y Timothy O’ Connor bất chấp hỏa lực mạnh đã nhoài người ra kéo Trung sĩ Johnny Varner vào trực thăng bốc quân. O’Connor bị thương ở đùi khi cố với tới trung sĩ Engene Morean đã chết. Một chiến binh LLĐB Việt Nam trong toán đã bò lên phía trực thăng bên kia và trực thăng cất cánh trong khi các súng tự động nhã đạn như mưa vào chỗ đáp. Ngay sau đó, một chiến binh LLĐB Việt Nam khác được tìm thấy trong rừng và đã được cứu. Đại đội 4 của tiểu đoàn 91 Biệt Cách Nhảy Dù VNCH được phái đến trận địa sau khi trời tối, thu hồi hai xác chết của trung sĩ Morean và hạ sĩ Mô. Mặc dù trong cuộc hành quân 10-66, có 1 chiến binh LLĐB tử trận, 4 bị thương, nhưng các cuộc oanh kích do toán Delta chỉ dẫn đã gây thiệt hại nặng cho CQ.
Các toán đặc nhiệm của Kế hoạch Delta trở lại chiến khu C trong cuộc hành quân 12-66 vào cuối tháng 9/1966, sau cuộc tìm kiếm một F4 Phantom rớt gần căn cứ Cam Ranh nhưng không tìm ra phi hành đoàn tử nạn. Những cuộc oanh kích được sử dụng để triệt hạ một số cơ sở hậu cần của VC. Ngày 15 tháng 10/1966, đơn vị lại được chở đến Khe Sanh trong cuộc hành quân có danh số là 13-66, tìm thấy một kho hậu cần của CQ khổng lồ ở phía Nam khu phi quân sự gần biên giới Việt-Lào. Không quân được điều động thực hiện cuộc oanh kích dữ dội gây thiệt hại lớn cho khu hậu cần này với những tiếng nổ và lửa kho đạn bốc lên. Trong giai đoạn 2 cuộc hành quân, một toán trinh sát bị CSBV phục kích, 1 hạ sĩ quan là trung sĩ Dyer tử thương, và các chiến binh LLĐB Việt Nam đã bảo vệ cho trung sĩ Russell Bott săn sóc cho chỉ huy toán là thượng sĩ Willie Stark dù bị bao vây và địch quân đông.
Sau cuộc hành quân 13-66, bộ phận Kế hoạch Delta có thêm 3 cuộc hành quân kế tiếp đã được chuẩn bị nhưng cuối cùng bị bãi bỏ vì chương trình huấn luyện tại Nha Trang. Đến năm 1967, một thành phần Kế hoạch Delta tái xâm nhập vào thung lũng An Lão trong cuộc hành quân 4-67 của Sư đoàn 1 Không Kỵ. Bắt đầu từ ngày 3-4-1967, Kế hoạch Delta đã thực hiện 52 chuyến công tác tình báo và đã ghi nhận rằng không có nhiều CQ vì các đường mòn và các trạm bị bỏ hoang. (Biên soạn dựa theo tài liệu quân sử của Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ và một số bài viết trong KBC).
Kỳ sau: Cuộc xâm nhập của đơn vị đặc nhiệm Delta vào thung lũng An Hậu nam 1967.