Vệ tinh này được hoả tiễn CZ-3 (Trường Chinh số 3) phóng lên từ trung tâm phóng Xichang, nằm ở tây nam Hoa lục, theo như Tân Hoa Xã cho biết.
Vệ tinh Trung quốc mới cho phóng lên có tên là Vệ Phong 2, vệ tinh khí tượng thứ hai có vị trí cố định đối với trái đất. Vệ phong 2 là vệ tinh canh cải của vệ tinh đã phóng lên năm 1997, theo như lời một chuyên gia hỏa tiễn không được biết tên của Trung quốc đã cho Tân Hoa Xã biết tin.
Đây là lần phóng thứ 61 thuộc họ hỏa tiễn Trường Chinh và lần phóng thứ 13 của hỏa tiễn loại CZ-3, theo như Tân Hoa Xã cho biết.
Vệ tinh đầu tiên Trung quốc cho phóng đã dùng hỏa tiễn loại CZ-1 (Trường Trinh số 1).
Năm 1985, Trung quốc đã bắt đầu đưa các loại hỏa tiễn Trường Chinh vào thương mại với niềm hy vọng thu hút các thương gia nước ngoài ký khế ước phóng vệ tinh mướn và giúp phát triển công nghệ hàng không không gian của Trung quốc.
Những hy vọng này đã bị vỡ mộng vào giữa năm 1990 với dàn phóng CZ-3B (Launcher, or Rocket), hỏa tiễn CZ-3B đã nổ tung khi chưa vượt ra khỏi bầu khí quyển, giết chết sáu nhân viên dưới đất và phải bồi thường một vệ tinh truyền thông cho một công ty Hoa kỳ.
CZ-3 sản xuất ra năm 1984, có tên là Trường Chinh số 3. Hỏa tiễn này đã dựa vào thiết kế của hỏa tiễn CZ-2C gắn thêm tầng đẩy thứ ba được đốt bằng nhiên liệu lỏng H-8 (Khí Hydrogen được cho hóa lỏng dùng nhiệt độ lạnh).
CZ-3A ra lò năm 1994, hỏa tiễn này là CZ-3 tầng đẩy đầu tiên được nâng cấp, tầng đẩy thứ hai được tách ra để làm nhẹ gánh trong lúc phóng đi, tầng đẩy thứ ba động cơ đẩy được cải tiến dùng nhiên liệu H-18.
CZ-3B ra lò năm 1996, hoả tiễn này là CZ-3A được gắn thêm bốn động cơ đẩy của hỏa tiễn CZ-2E dùng nhiên liệu loại lỏng.
CZ-3C là thoái thân của CZ-3B thay vì bốn động cơ đẩy, chỉ còn lại hai động cơ đẩy.
Các nhiên liệu lỏng dùng cho các hỏa tiễn nói trên đều là những chất khí Hydrogen hóa lỏng ở nhiệt độ duới 253 độ C và Oxygen hóa lỏng ở nhiệt độ dưới 183 độ C.
Những hỏa tiễn dùng làm vũ khí đều dùng nhiên liệu đặc, có hình thù cấu tạo đặc biệt theo kỹ thuật bí mật để tạo sức đẩy đều đặn cho dễ kiểm soát và dễ tính toán khi phóng, vì Liên sô đã giữ bí mật về nhiên liệu dùng phóng hỏa tiễn, nên Việt Nam không thể nào bước vào thương mại với các dàn hỏa tiễn phòng không đã tới lúc phải phế thải và không biết sẽ dùng làm gì, mặc dầu Việt Nam đã khoe khoang là đã cải tiến sức phóng các hỏa tiễn để hạ được máy bay Hoa kỳ.