Hai mươi lăm năm về trước, chúng ta rời Việt Nam với đôi bàn tay trắng và hoàn toàn thiếu chuẩn bị cho một cuộc sống mới trên xứ sở người. Nhưng với sự nâng đỡ của các nước như Mỹ, Canada, Úc, v.và và với tinh thần chịu khó học hỏi và cần cù làm việc, người Việt chúng ta đã nhanh chóng trở thành những thành viên có ích cho xã hội và có đóng góp cho khoa học.
Theo một bản thống kê của nhà nước Việt Nam, hiện nay có khoảng 2.5 triệu người Việt hiện đang cư ngụ rải rác trên toàn cầu. Trong số này, có khoảng 300 ngàn người có tay nghề cao hay trình độ đại học trở lên. Đây là một con số không nhỏ, nếu so với con số khoảng một triệu người ở trong nước có cùng trình độ. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại có một lực lượng trí thức hùng hậu như thế ở hải ngoại.
Trong mọi ngành nghề, từ nghi ên cứu toán học, y học cho tới nghiên cứu không gian đều có sự hiện diện của các nhà khoa học gốc Việt. Một số các nhà khoa học này có nhiều đóng góp quan trọng và được nhiều đồng nghiệp khắp thế giới kính phục.
Đứng về mặt tổng quan, chúng ta cũng gặt hái được nhiều thành tích rất đáng kể. Trong hoạt động nghiên cứu, số lượng những bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế thường được xem là một trong những chỉ số chính về năng suất nghiên cứu và một thước đo về sự cống hiến cho kiến thức nhân loại.
Theo ước tính của tôi, trong 25 năm qua, các nhà khoa học gốc Việt ở hải ngoại đã công bố khoảng 14,000 (12) bài báo khoa học trên các tạp chí y khoa, hóa học và sinh học. Nếu đem con số này so với số lượng của cả nước Việt Nam (280 bài), Thái Lan (5,200), Mã Lai (2,100) hay Singapore (6,900) thì đây là con số không nhỏ. Nó là con số thể hiện bước đầu thành công của giới khoa học hải ngoại.
Nhưng điều quan trọng hơn nữa là mức độ đóng góp của các nhà khoa học gốc Việt càng ngày càng gia tăng nhanh chóng.
Trong thập niên 70s và 80s, trung bình hàng năm, chúng ta (những người làm trong lĩnh vực y sinh và hóa học) công bố khoảng 260 bài báo khoa học; con số này tăng lên 680 bài trong những năm 1990 và 1995; và tăng vọt lên 1.170 bài vào những năm cuối thập niên 90s. Một sự tăng trưởng theo cấp nhân.
Qua kinh nghiệm cá nhân, trong những năm gần đây, sự hiện diện của các anh chị trẻ trong các hội nghị khoa học lớn trên thế giới càng ngày càng đông đảo. Họ cũng có nhiều ưu tư, ước nguyện muốn được có mặt nhiều hơn trên các diễn đàn khoa học quốc tế, để góp phần mang tên tuổi Việt Nam vào tri thức của nhân loại.
Sự thành công bước đầu của giới trí thức hải ngoại đã đem lại cho cộng đồng người Việt nhiều tự hào chính đáng, thậm chí có dấu hiệu tự mãn. Song, nếu dựa vào những gì chúng ta đã thực sự đạt được và so sánh với cộng đồng chung quanh thì chúng ta vẫn có lý do để ưu tư, để phấn đấu hơn nữa. Tôi thấy cần phải cảnh giác những bình phẩm có tính cách tự cao tự đại như người Việt Nam ta thông minh, hiếu học, học giỏi, v.v...
Trong thực tế, học lực của phần đông học sinh gốc Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, thậm chí dưới trung bình. Tôi biết nhiều sinh viên Việt Nam gặp khó khăn và cũng khốn đốn để thi đỗ vào các trường đại học ở Úc và Mỹ. Người Việt ta chưa chắc đã hiếu học, nhưng chắc chắn là hiếu bằng cấp, hơn các dân tộc khác. Thực ra, ở các nước Tây phương, học hành ra trường để có một mảnh bằng là một việc không khó, nhưng trở thành xuất sắc là việc không dễ chút nào. Và cũng theo kinh nghiệm cá nhân, tôi có cảm giác rằng sinh viên gốc Việt ta cũng không có gì gọi là xuất sắc trong học hành hay nghiên cứu so với sinh viên người bản xứ. Có người đạt được những thành tích vượt bực trong khi còn đi học, nhưng khi tốt nghiệp lại không có đóng góp hay sáng kiến gì đặc biệt hay đáng kể.
Theo tôi biết, chưa có khám phá nào của người Việt Nam được xem là có tầm cỡ quốc tế hay có giá trị thương mại lớn. Cho tới nay, mặc dù cũng có vài nhà khoa học gốc Việt rất sáng giá và uy tín trên thế giới trong các ngành nghiên cứu hẹp, nhưng theo tôi biết, vẫn chưa có người nào được bầu vào các hàn lâm viện ở Mỹ, Úc hay chiếm các giải thưởng lớn như giải Nobel hay giải Field.
Trên bình diện cộng đồng, so với các cộng đồng lâu đời khác như Trung Quốc, Đại Hàn và Phi Luật Tân, cộng đồng người Việt vẫn còn là một cộng đồng nghèo và kém. Theo một thống kê thuộc Phòng Thương Mại Á-Mỹ (Asian American Chamber of Commerce Report, 1997), mức thu nhập gia đình trung bình (average household income) của người Mỹ gốc Việt là $30,140, so với người Trung Quốc (khoảng $41,000) và Đại Hàn (khoảng $48,000).
Về trình độ học vấn, chỉ 20% đàn ông người Việt ở Mỹ có trình độ đại học trở lên (so với 32% trong cộng đồng người Trung Quốc và Phi Luật Tân hay 29% trong người Đại Hàn). Con số phụ nữ người Việt có trình độ đại học còn thấp hơn nữa: chỉ 12% (so với người Trung Quốc: 35%, Đại Hàn: 26% và Phi Luật Tân: 42%). Ở Úc, có thể nói cộng đồng người Việt còn kém hơn đồng hương chúng ta ở Mỹ. Tỷ lệ người Việt ở Úc có trình độ đại học và cao đẳng vẫn còn thấp hơn trình độ của đồng hương ở Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng người Việt tại Úc thuộc vào hạng cao nhất. Có lẽ tỷ lệ thất nghiệp đó không phản ánh đúng thực trạng thất nghiệp trong cộng đồng ta, nhưng có thể nó nói lên tình trạng lạm dụng trợ cấp an sinh xã hội. Ngoài ra nạn ma túy và cờ bạc đã và đang lan tràn trong cộng đồng, mang lại một ấn tượng không đẹp trong người bản xứ về người Việt.
Cố nhiên, những so sánh trên đây có thể không công bằng, vì cộng đồng người Việt Nam còn tương đối trẻ và chưa có mức độ hội nhập cao như các cộng đồng bạn. Tuy nhiên, qua cách nhìn thực tế này, ta cũng thấy là bên cạnh những thành quả tốt đẹp, ta còn rất nhiều ”vấn đềo”.
Tiến sĩ NGUYỄN DUY KHIÊM