HANOI - Có bao nhiêu người Việt tại hải ngoại" Và có bao nhiêu trí thức Việt kiều" Nhà nước CSVN luôn luôn dòm ngó chiêu dụ trí thức Việt kiều, và đó là lý do có một bản tường trình chi tiết từ Bộ Ngoại Giao CSVN để đánh giá từng cộng đồng hải ngoại một. Dưới đây là các thông tin tổng hợp.
Theo tài liệu của “Ủy ban Người Việt Nước Ngoài” thuộc bộ Ngoại giao CSVN được phổ biến, hiện nay có khoảng 2.5 triệu người Việt Nam cư trú tại gần 80 nước trên thế giới, trong đó số người được đào tạo có trình độ nghiên cứu khoa học và chuyên môn kỹ thuật cao, ước tính khoảng trên 300,000 người.
Cũng theo bản tường trình, tại Mỹ có khoảng 1.3 triệu người Việt Nam sinh sống, trong đó những người lao động có trình độ cao chiếm khoảng 12-13%, là trí thức hiện đang sinh sống chính yếu tại các thành phố và vùng phụ cận. Có nhiều người tham gia vào các trung tâm nghiên cứu hàng đầu của Mỹ như Bộ Quốc Phòng, NASA, Khu công nghiệp cao Silicon Vallay, giảng dạy trong các trường đại học như: Haward, Standford, Princeton và làm việc trong các công ty hàng đầu của Mỹ như: IBM, Microsoft, Boeing, các ngân hàng...
Báo CSVN viết như sau về thành phần trí thức người Việt tại Hoa Kỳ: “Mỹ là nơi có nhiều người Việt Nam định cư nhất nên lực lượng trí thức cũng đông, lực lượng trẻ cũng nhiều. Một số nhà khoa học nổi tiếng có chức vụ cao như: Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hào, Uỷ viên thường trực Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, từ năm 1984 đã được công bố vào danh sách các nhà khoa học xuất sắc của Mỹ, lãnh đạo Tập đoàn General Electric (GE), tập đoàn lớn thứ ba ở Mỹ. Hiện ông đang sinh sống ở California. Tiến sĩ Lê Giáng Hương được trao tặng 3 bằng sáng chế cùng nhiều giải thưởng của tổ hợp công nghiệp hàng không Mc.Donnel Douglas. Giáo sư, bác sĩ Daniel Trương Dũng, Giám đốc Trung tâm Parkisson, người có nhiều công trình nghiên cứu thành công về bệnh Parkisson. Ngoài ra, còn rất nhiều nhà khoa học về kinh tế, xã hội học và các ngành khoa học khác.”
Cũng theo tài liệu trên, tại Pháp có khoảng 30,000 trí thức Việt kiều, trong đó có trên 40 người là khoa học gia, kỹ thuật thuật gia có bằng cấp cao, có địa vị xã hội quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như các giáo sư các trường đại học, trung tâm nghiên cứu của nước Pháp. Nhiều nhà khoa học có các công trình nghiên cứu xuất sắc có giá trị như: Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đạt Xưởng, người dứng đầu trong lĩnh vực hoá sinh ở Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp (CNRS). Ông đã từng được thưởng Huân chương công trạng và Bắc đẩu Bội tinh (Huân chương cao quý nhất của nước Pháp) vì có nhiều công trình y dược, sáng chế ra thuốc Ciliptim chữa ung thư có hiệu quả cho phụ nữ. Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Trọng Phổ, là chuyên gia lớn về địa chấn. Nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, toán, vật lý, thiên văn, hoá học, y học được báo chí nhắc đến như Giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê về âm nhạc dân tộc, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, Giáo sư tiến sĩ thiên văn học Nguyễn Quang Riệu...
Theo bản văn trên, tại Canada có 180,000 người Việt Nam sinh sống, trong đó có 8-12% là trí thức trong các lĩnh vực thông tin điện toán học, điện tử, ngân hàng, cơ khí, công nghệ sinh học. Có khoảng 20 người có bằng cấp cao, đang giảng dạy, nghiên cứu trong các trường đại học nổi tiếng, trong các cơ quan chính phủ, các công ty lớn. Hàng ngũ trí thức ở đây đa số là trẻ, có nhiều tiềm năng rất lớn.
Tại Nhật có khoảng 100 trí thức có trình độ đại học trở lên, trong đó có 12 giáo sư, tiến sĩ, 40 kỹ sư giỏi đang làm việc tại các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, các công ty lớn của Nhật.
Tại Úc, Cộng đồng người Việt phần lớn sang đây từ năm 1975, trí thức có khoảng 32,000 người trong tổng số 160,000 Việt kiều, chiếm 20%. Giáo sư, tiến sĩ chiếm 0.5% trong số trí thức. Có khoảng 500 sinh viên du học trước năm 1975 ở lại và khoảng 100 du học ở Nhật sau đó sang đây định cư.
Tại Đức có khoảng 100,000 người, số trí thức không đông, có khoảng 80 người là tiến sĩ và phó tiến sĩ (văn bằng của hệ thống giáo dục Đông Đức cũ)...
Tại Anh số trí thức người Việt rất ít chỉ khoảng 23 người, chính yếu hoạt động trong các ngành khoa học xã hội, kỹ thuật, y dược, nông nghiệp.
Tại Nga có nhiều người Việt Nam sinh sống do đi du học, sinh viên đi nghiên cứu, đi hợp tác lao động sau ở lại sinh sống. Hiện nay có khoảng 2,300 người có bằng kỹ sư trở lên trong đó có 40 người có bằng tiến sĩ thuộc các ngành khoa học xã hội, khoa học cơ bản và kỹ thuật. Phần lớn hàng ngũ trí thức ở Nga cũng như các nước trong SNG và Đông Âu không tiếp tục nghề nghiệp mà theo đuổi công việc kiếm sống, làm giàu.
Theo lời một quan sát viên Quận Cam, việc nhà nước phổ biến bản thống kê về trí thức hải ngoại trên có thể sẽ là bước đầu cho một chiến dịch chiêu dụ. Người ta có thể thấy các hoạt động này sẽ mạnh nhất tại Hoa Kỳ, nơi đông người Việt nhất (1.3 triệu người) và đông trí thức nhất (khoảng 150,000 chuyên gia).
Theo tài liệu của “Ủy ban Người Việt Nước Ngoài” thuộc bộ Ngoại giao CSVN được phổ biến, hiện nay có khoảng 2.5 triệu người Việt Nam cư trú tại gần 80 nước trên thế giới, trong đó số người được đào tạo có trình độ nghiên cứu khoa học và chuyên môn kỹ thuật cao, ước tính khoảng trên 300,000 người.
Cũng theo bản tường trình, tại Mỹ có khoảng 1.3 triệu người Việt Nam sinh sống, trong đó những người lao động có trình độ cao chiếm khoảng 12-13%, là trí thức hiện đang sinh sống chính yếu tại các thành phố và vùng phụ cận. Có nhiều người tham gia vào các trung tâm nghiên cứu hàng đầu của Mỹ như Bộ Quốc Phòng, NASA, Khu công nghiệp cao Silicon Vallay, giảng dạy trong các trường đại học như: Haward, Standford, Princeton và làm việc trong các công ty hàng đầu của Mỹ như: IBM, Microsoft, Boeing, các ngân hàng...
Báo CSVN viết như sau về thành phần trí thức người Việt tại Hoa Kỳ: “Mỹ là nơi có nhiều người Việt Nam định cư nhất nên lực lượng trí thức cũng đông, lực lượng trẻ cũng nhiều. Một số nhà khoa học nổi tiếng có chức vụ cao như: Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hào, Uỷ viên thường trực Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, từ năm 1984 đã được công bố vào danh sách các nhà khoa học xuất sắc của Mỹ, lãnh đạo Tập đoàn General Electric (GE), tập đoàn lớn thứ ba ở Mỹ. Hiện ông đang sinh sống ở California. Tiến sĩ Lê Giáng Hương được trao tặng 3 bằng sáng chế cùng nhiều giải thưởng của tổ hợp công nghiệp hàng không Mc.Donnel Douglas. Giáo sư, bác sĩ Daniel Trương Dũng, Giám đốc Trung tâm Parkisson, người có nhiều công trình nghiên cứu thành công về bệnh Parkisson. Ngoài ra, còn rất nhiều nhà khoa học về kinh tế, xã hội học và các ngành khoa học khác.”
Cũng theo tài liệu trên, tại Pháp có khoảng 30,000 trí thức Việt kiều, trong đó có trên 40 người là khoa học gia, kỹ thuật thuật gia có bằng cấp cao, có địa vị xã hội quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như các giáo sư các trường đại học, trung tâm nghiên cứu của nước Pháp. Nhiều nhà khoa học có các công trình nghiên cứu xuất sắc có giá trị như: Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đạt Xưởng, người dứng đầu trong lĩnh vực hoá sinh ở Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp (CNRS). Ông đã từng được thưởng Huân chương công trạng và Bắc đẩu Bội tinh (Huân chương cao quý nhất của nước Pháp) vì có nhiều công trình y dược, sáng chế ra thuốc Ciliptim chữa ung thư có hiệu quả cho phụ nữ. Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Trọng Phổ, là chuyên gia lớn về địa chấn. Nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, toán, vật lý, thiên văn, hoá học, y học được báo chí nhắc đến như Giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê về âm nhạc dân tộc, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, Giáo sư tiến sĩ thiên văn học Nguyễn Quang Riệu...
Theo bản văn trên, tại Canada có 180,000 người Việt Nam sinh sống, trong đó có 8-12% là trí thức trong các lĩnh vực thông tin điện toán học, điện tử, ngân hàng, cơ khí, công nghệ sinh học. Có khoảng 20 người có bằng cấp cao, đang giảng dạy, nghiên cứu trong các trường đại học nổi tiếng, trong các cơ quan chính phủ, các công ty lớn. Hàng ngũ trí thức ở đây đa số là trẻ, có nhiều tiềm năng rất lớn.
Tại Nhật có khoảng 100 trí thức có trình độ đại học trở lên, trong đó có 12 giáo sư, tiến sĩ, 40 kỹ sư giỏi đang làm việc tại các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, các công ty lớn của Nhật.
Tại Úc, Cộng đồng người Việt phần lớn sang đây từ năm 1975, trí thức có khoảng 32,000 người trong tổng số 160,000 Việt kiều, chiếm 20%. Giáo sư, tiến sĩ chiếm 0.5% trong số trí thức. Có khoảng 500 sinh viên du học trước năm 1975 ở lại và khoảng 100 du học ở Nhật sau đó sang đây định cư.
Tại Đức có khoảng 100,000 người, số trí thức không đông, có khoảng 80 người là tiến sĩ và phó tiến sĩ (văn bằng của hệ thống giáo dục Đông Đức cũ)...
Tại Anh số trí thức người Việt rất ít chỉ khoảng 23 người, chính yếu hoạt động trong các ngành khoa học xã hội, kỹ thuật, y dược, nông nghiệp.
Tại Nga có nhiều người Việt Nam sinh sống do đi du học, sinh viên đi nghiên cứu, đi hợp tác lao động sau ở lại sinh sống. Hiện nay có khoảng 2,300 người có bằng kỹ sư trở lên trong đó có 40 người có bằng tiến sĩ thuộc các ngành khoa học xã hội, khoa học cơ bản và kỹ thuật. Phần lớn hàng ngũ trí thức ở Nga cũng như các nước trong SNG và Đông Âu không tiếp tục nghề nghiệp mà theo đuổi công việc kiếm sống, làm giàu.
Theo lời một quan sát viên Quận Cam, việc nhà nước phổ biến bản thống kê về trí thức hải ngoại trên có thể sẽ là bước đầu cho một chiến dịch chiêu dụ. Người ta có thể thấy các hoạt động này sẽ mạnh nhất tại Hoa Kỳ, nơi đông người Việt nhất (1.3 triệu người) và đông trí thức nhất (khoảng 150,000 chuyên gia).
Gửi ý kiến của bạn