Kinh tế đi liền với chính trị. Một câu nói quen thuộc của người Pháp, “nói đến kinh tế là phải nói đến chính trị”. Nhưng trong thời đại giao thương mở rộng và toàn cầu hóa kinh tế, cặp bài “kinh tế-chính trị” còn bắt buộc phải cột liền với chính sách đối ngoại của một nước.
Ở Việt Nam, sau khi ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản kết thúc khóa họp chuẩn bị văn kiện cho đại hội đảng vào tháng 3, người ta đã thấy nhiều tin đồn đại về thay đổi nhân sự. Những tin đồn này có thể đúng, nhưng cũng có thể là những hỏa mù do các phe kình chống lẫn nhau tung ra, còn phải chờ thêm mới biết rõ thực hư. Vấn đề nhân sự và chính sách vẫn có liên hệ chặt chẽ. Đảng quyết định đường lối chủ trương rồi mới chọn nhân sự lãnh đạo chấp hành hướng đi đó. Con đường của đảng dù muốn dù không cũng phải đặt kinh tế lên ưu tiên hàng đầu trước những vấn đề gay go không thể lảng tránh. Do đó sách lược đối ngoại được đặt ra. Cho đến nay Hà Nội vẫn trương lên chiêu bài “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Đây là kiểu “hòa cả làng” để cầu lợi, nhưng thực tế không dễ dàng như vậy.
Trước hết phải nói ngay Việt Nam muốn làm bạn với những ông nhà giầu, chớ làm bạn với mấy ông nhà nghèo Phi Châu, Nam Mỹ hay trên các hoang đảo Thái Bình Dương thì ăn cái giải gì. Các nước giầu hiện nay đều là những nước tư bản theo kinh tế thị trường, những nước mà các ông cộng sản đã thề đem chôn sống khi còn mồ ma Liên Sô. Ngày nay Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục lấy giáo điều Mác-Lê làm kim chỉ nam, chiêu bài “làm bạn” tự nhiên phải lộ bộ mặt giả dối của nó, chẳng lừa bịp được ai. Nhất là mấy ông tư bản gộc còn khôn hơn mấy ông định hướng ở Hà Nội rất nhiều. Bởi vậy nếu họ có đến thì cũng không phải là vì “tình bạn” mong chờ các ông Hà Nội chôn sống, mà đến vì những toan tính khác đủ mọi mặt để kiếm lợi riêng. Chuyện “hòa cả làng” cũng không thể che đậy một thủ đoạn khác đã bộc lộ từ ngày Hà Nội đổi mới kinh tế là chính sách cầu Âu, nhử Mỹ, dương Đông kích Tây, cốt để mấy ông tư bản cạnh tranh với nhau đem lợi đến cống hiến. Đây là ngón nghề quá thông thường của kinh tế thị trường ai cũng biết. Chỉ có điều khó nói, Việt Nam không còn là vùng đất hứa để cám dỗ những kẻ ham tiền.
Quan trọng nhất cho nền kinh tế Việt Nam vẫn là hai thế lực khổng lồ Mỹ và Trung Quốc. Ở đây muốn tìm một thế quân bình để vui vẻ đôi bề cũng khó. Bởi vì ngoài hai cái cạnh Hà Nội-Washington và Hà Nội-Bắc Kinh, lại còn cái cạnh thứ ba Bắc Kinh-Washington, thành ra các ông đảng ở Hà Nội phải đi vào một cái hình tam giác thật phức tạp. Năm xưa trong thời chiến tranh Việt Nam, đảng Cộng sản đã phải hát xiệc đi dây giữa hai đàn anh Liên Sô và Trung Quốc, đó là thời kỳ cả hai đàn anh đều muốn lợi dụng xương máu Việt Nam để đánh tư bản Mỹ. Nhưng đến khi chiến tranh kết thúc, vấn đề lại khác vì nó buộc đảng Cộng sản Việt Nam phải chọn một trong hai đường: theo Nga hay theo Tầu. Hà Nội đã trở mặt với Bắc Kinh để theo Moscow, hậu quả là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam. Ngày nay tình hình còn phức tạp hơn nhiều.
Mối quan hệ gay go giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã tạo thêm sức ép đối với Hà Nội khiến chính sách “hòa cả làng” không cách nào thi hành được. Trung Quốc cũng là nước cộng sản giống Việt Nam, nhưng tình nghĩa vô sản quốc tế chống đế quốc xâm lược đã biến mất từ lâu. Ngày nay người ta không xâm lược bằng quân sự, người ta xâm lược bằng hàng hóa. Hàng hóa “Made in China” tràn vào các thị trường Việt Nam, đủ mặt từ các thỏi thép, xe gắn máy rẻ tiền, mỹ phẩm dổm, đĩa CD “trí tặc” cho đến các loại hàng tiêu dùng bình dân như xà-bông thơm, kem đánh răng, xe đạp, kể cả TV mầu. Chúng có mặt không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp các thị trường Đông Nam Á. Đây là thủ đoạn gây ảnh hưởng và bành trướng toàn vùng của thời đại kinh tế toàn cầu.
Đối với Mỹ, đảng CSVN không muốn chỉ “hòa cả làng” mà còn muốn cầu thân, vì đồng đô-la quá đẹp trong tư tưởng làm giầu theo “định hướng phe đảng” thay vì định hướng nhân dân. Nhưng trên đường cầu thân Mỹ, Hà Nội lại sợ sệt e dè cơn thịnh nộ của Bắc Kinh. Ngay từ năm 1991, sau khi đã tiến hành đổi mới theo kinh tế thị trường, Hà Nội đã nỗ lực tìm cách hòa giải, mở lại quan hệ bình thường với Trung Quốc bị đứt đoạn từ khi xẩy ra cuộc chiến tranh biên giới 1979. Gần đây việc ký thương ước với Mỹ đã cho thấy các tay lãnh đạo đảng CSVN quỵ lụy Trung Quốc như thế nào. Hà Nội chỉ dám ký với Mỹ sau khi Trung Quốc đã ký kết với Mỹ.
Sách lược đối ngoại trong cái hình ba cạnh đó chắc phải được đề cập đến trong các cuộc họp kín của Trung ương đảng hồi đầu tháng. Không một tin nào được tiết lộ ra bên ngoài về chuyện này, nhưng có một biến cố đầy ý nghĩa. Vào ngày cuối của khóa họp trung ương đảng, Hà Nội đột ngột hủy bỏ chuyến viếng thăm của Đô đốc Dennis Blair, Tổng tư lệnh Quân lực Mỹ Thái Bình Dương. Các nhà quan sát coi chuyến đi của Đô đốc Blair qua thăm nhiều nước Đông Nam Á như một nỗ lực vận động các nước trong khu vực ASEAN tạo một thế hợp tác ngăn chặn sự bành trướng thế lực của Trung Quốc. Việc hủy bỏ cuộc viếng thăm của Đô đốc Blair cho thấy Hà Nội đã dội lại, không dám tham gia vào việc này.
Đây là một quyết định dứt khoát của phe bảo thủ giáo điều đang chế ngự Trung ương đảng để ôm chân Trung Quốc, hay chỉ là một hành động thoa dịu người khổng lồ láng giềng phương Bắc" Sự thật sẽ bộc lộ rõ khi đảng chỉ định nhân sự lãnh đạo trong những ngày tới.
Gửi ý kiến của bạn