Tháng 9/1998, thầy được thả ra, nhưng CSVN không cho thầy về chùa Thiên Mụ Huế, mà bắt về chùa Long An ở xã Triệu Thượng, Quận Triệu Phong, Quảng Trị.
Năm 1999, Thượng tọa được Viện Hoá Đạo GHPGVNTN công cử đặc trách Phật sự tại tỉnh Quảng Trị (QĐ 03/VHĐ/VT/QĐ ngày 22.9.99). Thượng tọa thường xuyên lên tiếng tố giác nhà nước và đảng CSVN vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo trong nước. Sau đây là những niềm trăn trở của thầy trước cơn sóng gió của Giáo Hội PGVNTN do cộng sản gây ra.
***
Tôi từng nghe Thầy Tổ chúng ta thường dạy: Hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp. Có nghĩa là, đối với người Tăng sĩ, hoằng dương Chánh pháp là việc nhà, làm việc lợi lạc quần sanh là sự nghiệp.Việc nhà ở đây ý nói là trách nhiệm, là công việc của chính mình, việc ấy là làm cho mình, làm hằng ngày mà không thể bê trễ. Lời dạy ấy có lẽ Tăng sĩ chúng ta, không ai là không nghe, không hiểu. Nhưng để ý thức và tự khẳng định sứ mạng của mình theo tinh thần của lời dạy ấy, thì không phải là ai cũng có. Người mang sứ mạng ấy còn gọi là Như Lai sứ.
Vậy, nên chăng, cứ mỗi ngày, chúng ta nên tự hỏi lại chính mình: Ngày hôm nay có phải mình làm Như Lai sứ" Hay đang làm gì... gì... sứ" để làm sống dậy tinh thần của người Tăng sĩ nơi mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện tại. Tinh thần ấy, theo cố Hòa thượng THÍCH TRÍ THỦ, khi Ngài đang còn làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN, Ngài đã dõng dạc tuyên bố: "Khi nào mà Pháp không hoằng, sanh không lợi, thì người Tăng sĩ chúng ta không có lý do gì để biện minh cho sự có mặt của mình." Người xưa quả quyết thật!
Tôi lại nghĩ, Tỷ kheo có nghĩa là: Bố ma, phá ác, khất thực. Cộng thêm tinh thần Bồ Tát giới là: Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh. Những ý nghĩa ấy giúp cho chúng ta thấy gì từ chính mình"
- Bố ma: Làm cho chúng ma phải khiếp sợ. Đòi hỏi vị Tỷ kheo phải có uy đức.
- Phá ác: Tu tập để phá diệt các ác nghiệp. Đòi hỏi vị Tỷ kheo phải có giới đức.
- Khất thực: Xin ăn để trưởng dưỡng thân tâm; ngăn ngừa tham lam, tự kiêu, ngã mạn; rộng làm ruộng phước, lợi lạc nhân thiên. Đòi hỏi vị Tỷ kheo phải có nguyện lực.
- Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh: Nhìn lên chí cầu đạo vô thượng Bồ đề, trông xuống phải có tâm từ bi thương tưởng mọi loài mà tìm cách đưa họ về nơi Phật đạo.
Biết vậy mà không khỏi xót xa, khi thấy ngày nay, không ít các bậc đứng trong hàng ngũ viên đảnh phương bào (đầu tròn áo vuông), đáng lẽ bố ma thì lại bị ma bố; đáng lẽ phá ác thì lại siêng năng kết tạo ác nghiệp; đáng lẽ khất thực để thanh tịnh tự hoạt, thì lại luôn luôn tỏ ra xa hoa hào nhoáng với những tiện nghi đời mới, đua đòi xài sắm những thứ đắt tiền, đeo đuổi theo những lạc thú thấp thường của thế gian mà vẫn thấy thản nhiên không hề biết hỗ thẹn, để người đời có lắm kẻ cơ hiềm, mỉa mai là "phú Tăng" hoặc "trọc phú"... thì làm sao chúng ta có thể giáo hoá cho đời!
Đã thế, lại thấy những vị khoát áo nâu sồng, xưng danh Thích tử mà lại bói toán phù phép để cầu lợi, kinh doanh đủ kiểu, mượn đạo tạo đời. Hoặc xu phụ với thế quyền để được chức danh, phẩm hàm, bỗng lộc... làm thương tổn quá lớn cho phẩm hạnh Sa Môn, khiến cho nhiều khi hai chữ Phật sự thiêng liêng, lại thành ra thực chất chỉ là những công việc do người đời sai khiến!
Lại nữa, mỗi khuya, chúng ta quỳ trước đức Thế Tôn đọc tụng lại lời phát nguyện:
Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế, thệ tiên nhập.
Có nghĩa: Cúi lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy chứng minh cho con,
Cuộc đời xấu ác, đầy dẫy năm thứ ô trược nầy, con nguyền xin vào trước.
Vào trước ở đây, là do bản thệ và nguyện lực của hạnh nguyện Bồ tát. Chứ không phải là do những cám dỗ, lôi cuốn, đắm chìm bởi cuộc đời ác độc. Vậy, chúng ta thấy thân tâm mình, lý tưởng mình, đã được tưới tẩm như thế nào qua mỗi lần đọc tụng lên lời thệ nguyện cao cả ấy"!
Tôi thiết nghĩ, chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử mà vai trò và trách nhiệm của người Tăng sĩ thật là nặng nề và cần phải được tích cực phát huy. Thật vậy, xã hội Việt Nam ngày nay đạo đức suy đồi, thuần phong băng hoại, những giá trị văn hoá tinh thần chưa được phát huy đúng mức, nếu không muốn nói là còn bị xem nhẹ; có rất nhiều người đang bị khủng hoảng niềm tin, từ đó chạy theo chủ nghĩa kim tiền, thực dụng. Sự trạng ấy đang diễn ra ở khắp mọi nơi, trên nhiều lĩnh vực và trong mọi tầng lớp.
Trong mấy năm qua, Nhà nước Việt Nam đã phát động phong trào xây dựng làng văn hóa, cơ quan văn hóa, thực hiện nếp sống văn hoá..., đang nghiên cứu, điều chỉnh nhiều luật pháp nghiêm minh để đẩy lùi các tệ nạn đang lộng hành trong xã hội. Thế nhưng, tất cả mọi nỗ lực đầy tốn kém ấy, liệu có thể làm thay đổi được diện mạo của một nước Việt Nam dưới con mắt của các nhà văn hóa, đạo đức và thế giới hay không" Thật chưa ai dám trả lời một cách quyết chắc! Không quyết chắc, vì vấn đề đặt ra thật quá khó khăn, trong khi nhân tâm và niềm tin hướng thiện của những người có trách nhiệm đối với vấn đề thì thật là trống vắng.
Vả lại, muốn xây dựng một cộng đồng văn hóa thì phải có nhiều con người văn hóa; muốn xây dựng một xã hội, một đất nước văn hóa, thì cần phải có nhiều nhà văn hóa đúng nghĩa và rất mực anh tài. Thế nhưng, ngày nay nghĩ đến đó, chúng ta không khỏi ngậm ngùi đọc lại tâm trạng của danh nhân Nguyễn Trãi dưới xã hội triều Lê:
Thiên địa vô cùng giang mịch mịch
Anh hùng hữu hạn diệp tiêu tiêu.
Là một Tăng sĩ được trang bị tinh thần Bồ tát đạo với biết bao ý tưởng cao đẹp của giáo lý Đại thừa, chúng ta không thể bàng quan phê phán, chỉ trích xã hội, mà không thấy chính mình cũng phải nhận phần trách nhiệm cùng xã hội và cộng đồng mình đang sống. Ngày xưa, Thầy Tổ chúng ta, những bậc Cao tăng ẩn mình nơi thâm sơn, cùng cốc; thế mà đức chấn vương kỳ, hương đạo hạnh của quý Ngài thấm nhuần khắp trên ngàn, dưới nội.
Bây giờ, bởi cảnh đất nước thế nầy, mà chúng ta cứ bắt chước thói đời, chạy theo thành tích trên những con số, nào mấy chục ngàn Tăng Ni cùng khắp, bao nhiêu trường, bao nhiêu viện, bao nhiêu Tiến sĩ, Cử nhân...; thậm chí Tu sĩ ngày nay còn có mặt cả trong guồng máy Nhà nước các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội... Và, bằng vào những con số như thế, có người trong chúng ta đã vội mãn nguyện tự hào là "Phật giáo ngày nay còn hưng thịnh hơn cả thời đại Lý Trần" mà không biết hổ thẹn ư"!
Đạo Phật là một Tôn giáo lớn nhất của người dân Việt, đã đồng hành cùng Dân tộc suốt hơn hai nghìn năm lịch sử. Thầy Tổ của chúng ta đã làm cho Đạo Phật có một chỗ đứng vẻ vang trong lòng Dân tộc. Trong truyền thống đó, có thể nói rằng, ngày nay quần chúng nói chung và đồng bào Phật tử nói riêng, đều đặt niềm tin rất lớn vào quý Thầy - những người Tu sĩ chúng ta! Vì rằng, ai có thể tạo dựng lại được niềm tin cho thời đại" Ai có thể đóng góp hữu hiệu hơn vào công việc phục hưng nền đạo đức Dân tộc trong hoàn cảnh hiện tại" Nếu không phải là những con người đạo đức, chân tu!
Cụ Hồ Chí Minh từng nói: "Muốn xây dựng XHCN, trước hết cần phải có con người CNXH ". Đây là một câu nói mang tính triết lý đầy ấn tượng. Chính vì thế mà sau hơn bảy mươi năm xây dựng và phát triển, thế giới XHCN đã đổ vỡ, thất bại ê chề, chỉ còn lại vài ba nước, nhưng về mặt tư tưởng cũng đang chao đảo, lung lay. Giá trị triết lý của câu nói Cụ Hồ ở chỗ, thực trạng đổ vỡ ấy, không phải vì súng đạn của đối phương, mà chính là vì "con người CNXH" thật quá mong manh, mờ ảo; nếu không muốn nói là chỉ có trong những ước mơ!
(Tôi có nghe người ta kể, cụ Phạm Văn Đồng là người đã từng miệt mài đeo đuổi lý tưởng XHCN, nhưng khi về già cụ đã phải than rằng: "Tôi thấy ngày nay, Đảng viên thì nhiều, nhưng Cộng Sản thì không có mấy!"). Tôi nghĩ, bài học kinh nghiệm lịch sử nầy, ngày nay đang mang một ý nghĩa hết sức sinh động, không phải chỉ trên lĩnh vực chống tham nhũng, trừ tệ nạn, xây dựng đạo đức xã hội..., mà ngay cả giới tu sĩ Phật giáo chúng ta cũng phải nên suy gẫm.
Do đó, người Tu sĩ chúng ta ngày nay, nếu muốn hoàn thành được sứ mạng của mình, để không bị thế gian cơ hiềm khinh bạc, không hư dụng cơm áo của tín thí thập phương, không luống uổng một đời phải cạo bỏ râu tóc, xa cha lìa mẹ thân thích họ hàng... thì lời phát nguyện hằng đêm từ đầu buổi công phu lúc ba, bốn giờ sáng trước đức Thế Tôn: "Tương thử thâm tâm phụng trần sát...," phải được đọc lên như là lời thần chú chân thật bất hư. Nếu không khẳng định được cho mình một đại nguyện như thế, thì chúng ta thật khó có thể vượt qua được mọi chướng ngại, khó khăn từ bên trong lẫn bên ngoài, đang dày đặc trên con đường hoàng pháp lợi sinh.
Từ lâu nay, tôi sống ẩn mình với đám dân nghèo nơi thôn dã, ít có cơ hội được đi ra. Vừa qua, nhân một chuyến về quê, tôi có ghé Huế, Đà nẵng... rồi phố Hội quê tôi. Tôi được nghe, được thấy rất nhiều điều. Có nhiều điều rất vui, rất hữu ích, nhưng cũng có lắm chuyện phải suy nghĩ, trở trăn! Trong một ngôi chùa cổ nơi phố Hội trầm mặc, tình cờ, tôi gặp lại được Thượng tọa Hạnh Đức, rất vui. Thời gian tuy ngắn, nhưng anh em chúng tôi trao đổi cũng được lắm điều. Điều tôi tâm đắc nhất là được Thượng tọa đọc cho nghe bài thơ "Tôi là ai"" của Thầy Bảo Quang, như là một chia sẻ, cảm thông cho những tâm sự của tôi mà Người đã thấy được.
Trên đây là tất cả những ý nghĩ được viết ra từ chuyến đi đó và qua bài thơ đó. Nhân đây, qua bài viết nầy, tôi xin phép Thầy Bảo Quang được chép lại bài thơ "Tôi là ai"" của Thầy để chia sẻ lại với bạn bè, thân hữu và tất cả các lớp đàn em mà tôi hằng thương quý. Tôi thật lòng mong ước và cầu nguyện cho tất cả mọi người, cũng như tôi, sẽ có được một sự đồng cảm lớn lao, để chúng ta cùng sách tấn cho nhau, tự quán chiếu lại mình mà tiếp tục đi tới, dấn thân trong sứ mạng của người sứ giả Như lai.
Tôi là ai"
Tôi là kẻ ăn xin truyền thống
Không ngữa tay và chẳng mở lời
Tôi âm thầm nhận của khắp muôn nơi
Từ thành thị đến chốn bùn lầy nước đọng
Tôi sống nhờ vào mồ hôi lao động
Tôi sống nhờ vào những trí óc nhọc nhằn
Tôi sống nhờ vào cả những sự khó khăn
Của những kẻ buôn bưng bán gánh
Vậy có gì đâu mà tôi sanh kiêu hảnh
Có gì đâu mà tôi phô vẻ giàu sang
Tôi quên mình một kiếp sống hiên ngang
Không nhà cửa, không bạc tiền dính túi
Đáng lẽ phải ẩn mình nơi đầu non góc núi
Thì phây phây sống giữa thị thành
Lại đặt bày những chuyện chấp tranh
Ôm bản ngã, phô trương thanh thế
Tội của tôi chất chồng không xiết kể
Mà dửng dưng tưởng là chuyện tự nhiên
Tôi ba hoa giảng giải đạo Thánh Hiền
Nhưng thực chất chưa một lần thực tập
Chuyện của tôi hằng ngày tràn ngập
Nào xe, đài, nào điện thoại réo vang
Tôi là ai mà sống giữa trần gian"
Chính là kẻ ăn xin, quên truyền thống
THÍCH BẢO QUANG
Chùa Long an, Lập đông Quý Dậu.
Hải Tạng