16-8-1954: LIÊN QUÂN VN-PHÁP TRIỆT THOÁI KHỎI BẮC BẾN HẢI
LTS. Trong tinh thần tưởng niệm 50 năm ngày đất nước chia đôi theo Hiệp định Genève, VB giới thiệu đến bạn đọc loạt bài chiến sử " Vĩ tuyến 17, Hiệp định Genève, 50 năm nhìn lại", đăng vào số báo thứ Bảy hàng tuần. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: Quân lực VNCH trong giai đoạn 1946-1955( Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH); Đông Dương Hấp Hối của cựu Đại tướng Quân đội Pháp Henri Navarre; hồi ký của các cựu Tướng lãnh VNCH: cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Đại tướng Cao Văn Viên; Việc từng ngày 1945-1964 của tác giả Đoàn Thêm; tài liệu riêng của VB.
*Lược ghi thời biểu trình tập trung và triệt thoái lực lượng hai bên như sau:
Như đã trình bày, ngày 11-8-1954, lúc 7 giờ sáng tại Bắc Việt, các đơn vị Quân đội Quốc gia Việt Nam và Liên Hiệp Pháp tập trung xong lực lượng tại các khu vực Hà Nội, Hải Dương và Hải Phòng; cũng vào ngày giờ này, các đơn vị của Việt Minh phải hoàn tất việc tạm thời rút lui quân ra khỏi các vùng mà Lực lượng Quân đội Quốc gia VN và Liên Hiệp Pháp tập trung để chờ di chuyển vào Nam.
Tiếp theo, vào ngày 16-8-1954 lúc 7 giờ tại Trung Việt:Lực lượng Quân đội Quốc gia VN và Liên HiệpPháp hoàn tất cuộc triệt thoái ra khỏi vùng Bắc sông Bến Hải (gồm khu vực Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình, đồng thời và triệt thoái tạm thời ra khỏi Qui Nhơn để các đơn vị Việt Minh sử dụng làm nơi tập kết chờ ra Bắc; Về phiá Việt Minh phải hoàn tất việc tập trung các đơn vị tại những vùng đã ấn định trước khi triệt thoái về Bắc.
* Lực lượng Liên quânVN-Pháp triệt thoái khỏi Vĩnh Linh và tỉnh Quảng Bình
Tại khu vực từ Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị) đến tỉnh Quảng Bình, lực lượng Quân đội Quốc gia và Liên Hiệp Pháp di chuyển về phía Nam Bến Hải theo Quốc lộ 1 bằng các đoàn quân xa có thiết giáp hộ tống và phi cơ quan sát dẫn lộ từ trên không. Các đơn vị thuộc Quân đội Quốc gia di chuyển vào đồn trú tại Quảng Trị, Thừa Thiên. Các đơn vị thuộc Quân đội Liên Hiệp Pháp từ Quảng Bình vào, tập trung đóng quân tạm thời tại Đông Hà và Đà Nẵng.
Về thời hạn tối đa cho việc triệt thoái, hiệp định đình chiến ấn định rằng sau khi tập trung quân, lực lượng hai bên lần lượt triệt thoái vào Nam hay ra Bắc theo 4 thời kỳ:-Lực lượng Quân đội Quốc giaVN-Pháp rút ra khỏi Hà Nội, và lực lượng Việt Minh rút ra khỏi Hàm Tân, Xuyên Mộc: 80 ngày. Lực lượng Quân đội Quốc gia VN -Pháp rút khỏi Hải Dương, và lực lượng Việt Minh rút khỏi Đồng Tháp Mười: 100 ngày. Lực lượng Việt Minh rút khỏi Cà Mau: 200 ngày.Lực lượng Quân đội Quốc gia VN-Pháp rút ra khỏi Hải Phòng, lực lượng Việt Minh rút khỏi Nam Quảng Ngãi và Bình Định: 300 ngày. Tháng 8/1954, bắt đầu các cuộc chuyển quân của các đơn vị Quân đội Quốc gia VN và Liên Hiệp Pháp tại miền Bắc vào miền Nam. Kế hoạch chuyển quân được tiến hành theo quan niệm của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam là một số đơn vị lớn từ Bắc Việt vào sẽ đồn trú tại Đà Nẵng và Nha Trang để biến hai nơi này thành những đầu cầu cho chiến dịch tiếp thu các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.
* Tiến trình hình thành Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt từ 8/7 đến tháng 8/1954.
Như đã trình bày, trước ngày ngưng bắn, tại khu vực Nam của châu thổ Bắc Việt, Liên quân VN- Pháp đã mở cuộc hành quân mệnh danh là Auverge khai diễn vào cuối tháng 6/1954 để triệt thoái các đơn vị ra khỏi miền này. Cuộc triệt thoái đã thành công khiến các đơn vị được đưa về cố thủ trên những phòng tuyến xung quanh Hà Nội và Hải Phòng và dọc theo Quốc lộ 5. Tại những nơi đây đã xảy ra những trận giao tranh dữ dội, người lính Quốc gia bị giao động bởi vì sau cuộc triệt thoái, họ cảm thấy mất mát những gì là làng xóm, gia đình và người thân.
Ngày 7-7-1954, nội các của Thủ tướng Ngô Đình Diệm được thành lập. Để trấn tĩnh nhân tâm, ngày 8-7-1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thành lập Uỷ ban bảo vệ Bắc Việt với một thành phần gồm ông Hoàng Cơ Bình, tân đại biểu chính phủ tại Bắc Việt, giữ chức chủ tịch, 2 uỷ viên là ông Trần Trung Dung, uỷ viên dân sự; ủy viên quân sự là Thiếu tướng Nguyễn Văn Vận, Tư lệnh Đệ tam quân khu. Uỷ ban này được điều chỉnh bằng Dụ số 11 ngày 9/7/1954, trong đó, Uỷ ban được ủy quyền thay các tổng trưởng Quốc phòng, Nội vụ để giải quyết các vấn đề về hành chính, chính trị, và quân sự tại miền Bắc. Uỷ ban bảo vệ Bắc Việt duy trì tới ngày 6-8-1954 thì giải tán.
Cũng trong ngày ngày 6-8-1954, Bộ trưởng Lê Quang Luật (bộ trưởng trực thuộc Phủ Thủ tướng phụ trách Thông Tin) được cử làm Đại biểu chính phủ tại Bắc Việt, phụ trách chương trình di cư dân tị nạ, điều hành công việc ở một số khu vực tại miền Bắc trong thời gian lực lượng Quân đội Quốc gia và Liên Hiệp Pháp tiến hành cuộc triệt thoái khỏi Bắc Việt.
*Kế hoạch di chuyển của các đơn vị Quân đội Quốc gia VN tại Bắc Việt vào Nam (ghi theo thứ tự di chuyển, địa điểm tập trung và địa điểm đến)
-Các đơn vị di chuyển từ Hải Phòng vào Đà Nẵng:
Liên đoàn 31 lưu động ( các Tiểu đoàn 2, 9, 59 Bộ binh VN (BVN), Tiểu đoàn 723 Khinh quân, Tiểu đoàn 5 Pháo binh), Tiểu đoàn 5 Pháo binh.
Đại đội 3 Giang Thuyền, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù
Liên đoàn 32 lưu động ( Tiểu đoàn 6, 10, 20 BVN, Tiểu đoàn 3 Pháo binh).
Tiểu đoàn 31 BVN (Thái), Tiểu đoàn 51, 52 BVN; Tiểu đoàn 803, 710 Khinh quân.
-Di chuyển từ Hà Nội vào Đà Nẵng:
Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù.
Bộ Chỉ huy Pháo binh vị trí Đệ tam quân khu và Pháo đội chỉ huy vị trí 351.
Tiểu đoàn vận tải số 7.
- Di chuyển từ Hải Dương, Hà Nội, Hải Phòng vào Nha Trang, Ba Ngòi, Cam Ranh:
Tiểu đoàn 57 BVN và Trường Thiếu sinh quân Mong Cái.
Tiểu đoàn 705 Khinh quân, Tiểu đoàn 5 Công binh, Pháo binh vị trí 301.
Tiểu đoàn vận tải số 5
Bộ Tư lệnh Đệ tam quân khu, các đơn vị quản trị.
Tiểu đoàn Bộ binh VN 32, 71, 72, 75 (Nùng)
- Các đơn vị di chuyển từ Hà Nội, Quảng Yên vào Quán Tre, Gia Định, Mỹ Tho:
Các trung tâm huấn luyện và các đơn vị đang thụ huấn: Tiểu đoàn 50 BVN, 702, 714, 716 Kinh quân, các đại đội trọng pháo 721, 752, 755.
-Các đơn vị di chuyển từ Hải Phòng, Bình Phiên, Núi Đèo vào Hậu Giang:
Các Tiểu đoàn 26, 76 BVN, Tiểu đoàn 713, 718, 725 Khinh quân.
-Di chuyển vào Sóc Trăng:
Tiểu đoàn 54 BVN, Tiểu đoàn 704, 708, 720 Kinh quân, Đại đội Trọng pháo 753.
-Di chuyển từ Tỉnh lộ 38 Bắc Việt vào Cần Thơ, Long Xuyên:
Tiểu đoàn 16 BVN, Tiểu đoàn 707, 719, 701 Khinh quân
- Di chuyển từ Kiến An vào Sài Gòn:
Các đơn vị để hình thành Trung đoàn Bộ binh 156 gồm Tiểu đoàn 4, 53, 74 BVN. Tiểu đoàn 34 Pháo binh, Tiểu đoàn 73 BVN, Tiểu đoàn 709 Khinh quân.
-Di chuyển từ Hải Phòng vào Đà Lạt:
Các tiểu đoàn Khinh quân 726, 727 và 728 Khinh quân gốc từ Bảo chính đoàn đôn chuyển.
Sau khi các đơn vị nói trên di chuyển đến các khu vực đóng quân, Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam đã tiến hành kế hoạch thành lập các Trung đoàn, Sư đoàn Bộ binh, và các binh đoàn của các binh chủng. (Kỳ sau: Tiến trình phát triểm Quân đội Quốc gia từ tháng 8/1954 đến tháng 12/1954).
LTS. Trong tinh thần tưởng niệm 50 năm ngày đất nước chia đôi theo Hiệp định Genève, VB giới thiệu đến bạn đọc loạt bài chiến sử " Vĩ tuyến 17, Hiệp định Genève, 50 năm nhìn lại", đăng vào số báo thứ Bảy hàng tuần. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: Quân lực VNCH trong giai đoạn 1946-1955( Khối Quân sử/Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH); Đông Dương Hấp Hối của cựu Đại tướng Quân đội Pháp Henri Navarre; hồi ký của các cựu Tướng lãnh VNCH: cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Đại tướng Cao Văn Viên; Việc từng ngày 1945-1964 của tác giả Đoàn Thêm; tài liệu riêng của VB.
*Lược ghi thời biểu trình tập trung và triệt thoái lực lượng hai bên như sau:
Như đã trình bày, ngày 11-8-1954, lúc 7 giờ sáng tại Bắc Việt, các đơn vị Quân đội Quốc gia Việt Nam và Liên Hiệp Pháp tập trung xong lực lượng tại các khu vực Hà Nội, Hải Dương và Hải Phòng; cũng vào ngày giờ này, các đơn vị của Việt Minh phải hoàn tất việc tạm thời rút lui quân ra khỏi các vùng mà Lực lượng Quân đội Quốc gia VN và Liên Hiệp Pháp tập trung để chờ di chuyển vào Nam.
Tiếp theo, vào ngày 16-8-1954 lúc 7 giờ tại Trung Việt:Lực lượng Quân đội Quốc gia VN và Liên HiệpPháp hoàn tất cuộc triệt thoái ra khỏi vùng Bắc sông Bến Hải (gồm khu vực Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình, đồng thời và triệt thoái tạm thời ra khỏi Qui Nhơn để các đơn vị Việt Minh sử dụng làm nơi tập kết chờ ra Bắc; Về phiá Việt Minh phải hoàn tất việc tập trung các đơn vị tại những vùng đã ấn định trước khi triệt thoái về Bắc.
* Lực lượng Liên quânVN-Pháp triệt thoái khỏi Vĩnh Linh và tỉnh Quảng Bình
Tại khu vực từ Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị) đến tỉnh Quảng Bình, lực lượng Quân đội Quốc gia và Liên Hiệp Pháp di chuyển về phía Nam Bến Hải theo Quốc lộ 1 bằng các đoàn quân xa có thiết giáp hộ tống và phi cơ quan sát dẫn lộ từ trên không. Các đơn vị thuộc Quân đội Quốc gia di chuyển vào đồn trú tại Quảng Trị, Thừa Thiên. Các đơn vị thuộc Quân đội Liên Hiệp Pháp từ Quảng Bình vào, tập trung đóng quân tạm thời tại Đông Hà và Đà Nẵng.
Về thời hạn tối đa cho việc triệt thoái, hiệp định đình chiến ấn định rằng sau khi tập trung quân, lực lượng hai bên lần lượt triệt thoái vào Nam hay ra Bắc theo 4 thời kỳ:-Lực lượng Quân đội Quốc giaVN-Pháp rút ra khỏi Hà Nội, và lực lượng Việt Minh rút ra khỏi Hàm Tân, Xuyên Mộc: 80 ngày. Lực lượng Quân đội Quốc gia VN -Pháp rút khỏi Hải Dương, và lực lượng Việt Minh rút khỏi Đồng Tháp Mười: 100 ngày. Lực lượng Việt Minh rút khỏi Cà Mau: 200 ngày.Lực lượng Quân đội Quốc gia VN-Pháp rút ra khỏi Hải Phòng, lực lượng Việt Minh rút khỏi Nam Quảng Ngãi và Bình Định: 300 ngày. Tháng 8/1954, bắt đầu các cuộc chuyển quân của các đơn vị Quân đội Quốc gia VN và Liên Hiệp Pháp tại miền Bắc vào miền Nam. Kế hoạch chuyển quân được tiến hành theo quan niệm của Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam là một số đơn vị lớn từ Bắc Việt vào sẽ đồn trú tại Đà Nẵng và Nha Trang để biến hai nơi này thành những đầu cầu cho chiến dịch tiếp thu các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.
* Tiến trình hình thành Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt từ 8/7 đến tháng 8/1954.
Như đã trình bày, trước ngày ngưng bắn, tại khu vực Nam của châu thổ Bắc Việt, Liên quân VN- Pháp đã mở cuộc hành quân mệnh danh là Auverge khai diễn vào cuối tháng 6/1954 để triệt thoái các đơn vị ra khỏi miền này. Cuộc triệt thoái đã thành công khiến các đơn vị được đưa về cố thủ trên những phòng tuyến xung quanh Hà Nội và Hải Phòng và dọc theo Quốc lộ 5. Tại những nơi đây đã xảy ra những trận giao tranh dữ dội, người lính Quốc gia bị giao động bởi vì sau cuộc triệt thoái, họ cảm thấy mất mát những gì là làng xóm, gia đình và người thân.
Ngày 7-7-1954, nội các của Thủ tướng Ngô Đình Diệm được thành lập. Để trấn tĩnh nhân tâm, ngày 8-7-1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thành lập Uỷ ban bảo vệ Bắc Việt với một thành phần gồm ông Hoàng Cơ Bình, tân đại biểu chính phủ tại Bắc Việt, giữ chức chủ tịch, 2 uỷ viên là ông Trần Trung Dung, uỷ viên dân sự; ủy viên quân sự là Thiếu tướng Nguyễn Văn Vận, Tư lệnh Đệ tam quân khu. Uỷ ban này được điều chỉnh bằng Dụ số 11 ngày 9/7/1954, trong đó, Uỷ ban được ủy quyền thay các tổng trưởng Quốc phòng, Nội vụ để giải quyết các vấn đề về hành chính, chính trị, và quân sự tại miền Bắc. Uỷ ban bảo vệ Bắc Việt duy trì tới ngày 6-8-1954 thì giải tán.
Cũng trong ngày ngày 6-8-1954, Bộ trưởng Lê Quang Luật (bộ trưởng trực thuộc Phủ Thủ tướng phụ trách Thông Tin) được cử làm Đại biểu chính phủ tại Bắc Việt, phụ trách chương trình di cư dân tị nạ, điều hành công việc ở một số khu vực tại miền Bắc trong thời gian lực lượng Quân đội Quốc gia và Liên Hiệp Pháp tiến hành cuộc triệt thoái khỏi Bắc Việt.
*Kế hoạch di chuyển của các đơn vị Quân đội Quốc gia VN tại Bắc Việt vào Nam (ghi theo thứ tự di chuyển, địa điểm tập trung và địa điểm đến)
-Các đơn vị di chuyển từ Hải Phòng vào Đà Nẵng:
Liên đoàn 31 lưu động ( các Tiểu đoàn 2, 9, 59 Bộ binh VN (BVN), Tiểu đoàn 723 Khinh quân, Tiểu đoàn 5 Pháo binh), Tiểu đoàn 5 Pháo binh.
Đại đội 3 Giang Thuyền, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù
Liên đoàn 32 lưu động ( Tiểu đoàn 6, 10, 20 BVN, Tiểu đoàn 3 Pháo binh).
Tiểu đoàn 31 BVN (Thái), Tiểu đoàn 51, 52 BVN; Tiểu đoàn 803, 710 Khinh quân.
-Di chuyển từ Hà Nội vào Đà Nẵng:
Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù.
Bộ Chỉ huy Pháo binh vị trí Đệ tam quân khu và Pháo đội chỉ huy vị trí 351.
Tiểu đoàn vận tải số 7.
- Di chuyển từ Hải Dương, Hà Nội, Hải Phòng vào Nha Trang, Ba Ngòi, Cam Ranh:
Tiểu đoàn 57 BVN và Trường Thiếu sinh quân Mong Cái.
Tiểu đoàn 705 Khinh quân, Tiểu đoàn 5 Công binh, Pháo binh vị trí 301.
Tiểu đoàn vận tải số 5
Bộ Tư lệnh Đệ tam quân khu, các đơn vị quản trị.
Tiểu đoàn Bộ binh VN 32, 71, 72, 75 (Nùng)
- Các đơn vị di chuyển từ Hà Nội, Quảng Yên vào Quán Tre, Gia Định, Mỹ Tho:
Các trung tâm huấn luyện và các đơn vị đang thụ huấn: Tiểu đoàn 50 BVN, 702, 714, 716 Kinh quân, các đại đội trọng pháo 721, 752, 755.
-Các đơn vị di chuyển từ Hải Phòng, Bình Phiên, Núi Đèo vào Hậu Giang:
Các Tiểu đoàn 26, 76 BVN, Tiểu đoàn 713, 718, 725 Khinh quân.
-Di chuyển vào Sóc Trăng:
Tiểu đoàn 54 BVN, Tiểu đoàn 704, 708, 720 Kinh quân, Đại đội Trọng pháo 753.
-Di chuyển từ Tỉnh lộ 38 Bắc Việt vào Cần Thơ, Long Xuyên:
Tiểu đoàn 16 BVN, Tiểu đoàn 707, 719, 701 Khinh quân
- Di chuyển từ Kiến An vào Sài Gòn:
Các đơn vị để hình thành Trung đoàn Bộ binh 156 gồm Tiểu đoàn 4, 53, 74 BVN. Tiểu đoàn 34 Pháo binh, Tiểu đoàn 73 BVN, Tiểu đoàn 709 Khinh quân.
-Di chuyển từ Hải Phòng vào Đà Lạt:
Các tiểu đoàn Khinh quân 726, 727 và 728 Khinh quân gốc từ Bảo chính đoàn đôn chuyển.
Sau khi các đơn vị nói trên di chuyển đến các khu vực đóng quân, Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam đã tiến hành kế hoạch thành lập các Trung đoàn, Sư đoàn Bộ binh, và các binh đoàn của các binh chủng. (Kỳ sau: Tiến trình phát triểm Quân đội Quốc gia từ tháng 8/1954 đến tháng 12/1954).
Gửi ý kiến của bạn