Hôm nay,  

Tướng Quân Trần Độ: ‘gươm Đàn Nửa Gánh, Non Sông Một Chèo’

06/08/200400:00:00(Xem: 5127)
(Lời giới thiệu VNN: Trong số những tiếng nói phản kháng ở trong nước, ông Trần Độ là một trường hợp đặc biệt. Hy sinh cuộc đời cho đảng cộng sản mà ông tưởng rằng sẽ đưa đất nước đến độc lập tự do, khi biết bị sai lầm, ông đã can đảm đứng thẳng lên mạnh mẽ tố cáo những cái xấu của chế độ. Cả phần cuối của cuộc đời ông hy sinh cho công cuộc đấu tranh dân chủ. Ông đã bị chính chế độ mà trước đó ông tận tụy phục vụ, trù dập tàn bạo, và ngay cả khi ông đã nằm xuống, đòn thù vẫn không ngưng quất xuống trong đám tang của ông. Dù ở trong vị trí khác biệt với ông trong quá khứ, nhiều người cũng đã phải căm phẫn trước thái độ hèn hạ của CSVN. Nhân dịp giỗ lần thứ 2 của ông Trần Độ, ông Nguyễn Thanh Giang đã có những lời tâm tình trong bài viết sau đây, chúng tôi xin giới thiệu đến qúy độc giả làm 2 kỳ.)
*
Trước khi được biết tương đối tường tận về con người quân sự qua những sứ mệnh: Chính trị viên Bộ chỉ huy Vệ quốc đoàn khu Hà Nội, Phó Chính uỷ quân giải phóng Miền Nam..., con người chính trị qua những đảm trách: Trưởng ban Văn hoá- Văn nghệ Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội..., tôi đã từng trân quý con người học thuật Trần Độ qua tầm vóc khái quát của một định nghĩa của ông về văn hoá: "...Văn hoá là những quá trình hoạt động sáng tạo của con người theo hướng chân, thiện, mỹ và các sản phẩm của hoạt động đó được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Những cái đó có tác dụng phát triển các lực lượng bản chất của con người, bao gồm cả lực lượng thể chất và lực lượng tinh thần (ý thức, khả năng sáng tạo); do đó, làm cho xã hội tiến bộ" (1).
Trong đôi câu đối tặng Trần Độ, tiến sỹ sinh vật học Hà Sỹ Phu viết:
"Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm.
Băc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm".
Ở Trần Độ, cái vóc dáng bề thế "thế sự song kiên, song trọng đảm" không chỉ biểu hiện ở "văn võ tung hoành", mà còn ở cái lẫm liệt "hùng binh nhất trượng, nhất đan tâm".
Rồi đây không biết người đời sẽ nhớ Trần Độ võ tướng quân hay Trần Độ văn nhân nhiều hơn. Riêng tôi, tôi ghi tạc thật đậm sâu cái tư chất văn hoá dân chủ trong con người Trần Độ. Tại buổi tiễn đưa ông về chốn vĩnh hằng, tôi đã từng chiêm nghiệm:
Tôi thắp nén nhang trước linh cữu của Người
Thấy vòi vọi vong linh Trần Độ
Thấy bay lên ngọn cờ Dân chủ
Trong tim tôi, rừng rực đuốc thiêng
Nhân bản, cội nguồn tinh thần dân chủ Trần Độ
Trần Độ tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, sinh ngày 23 tháng 9 năm 1923 tại vùng quê Tiền Hải, Thái Bình. Khác với những kẻ là cai phu đồn điền, là chàng hoạn lợn lang thang... nhưng cứ khai vấy là thành phần công nhân, Trần Độ thành thật (và có vẻ như tự hào) nói về nguồn gốc quan lại, trí thức của mình: "Tôi sinh ra trong một gia đình công chức. Hồi năm sáu tuổi, tôi nghe người làng gọi bố tôi là quan phán. Thời ấy các công chức đều là quan, quan thông phán tức thư ký các toà, quan tham tá thuộc bậc cao hơn. Bố tôi là quan phán vì ông là thư ký ở toà thông sứ tại Hà Nội. Bố tôi xuất thân từ một gia đình nho giáo ở quê Thái Bình. Khác với bác tôi đã nối nghiệp nhà trở thành một nhà nho, bố tôi lớn lên giữa buổi chữ Hán không còn được trọng dụng, ông đã chuyển sang học quốc ngữ để mưu cầu việc kiếm sống. Nghe bạn bè bảo phải biết cả tiếng Pháp mới hòng có cơ may, ông đã tìm học tiếng Pháp đến mức viết và nói được. Rồi ông nhờ cậy chạy được một chân thư ký ở toà thống sứ Bắc kỳ. Từ đó mỗi lần về quê, dân làng cứ trọng vọng gọi ông là quan phán" (2).
Tuy nhiên, tình cảm thắm thiết hơn, ông dành cho người mẹ lam lũ, vất vả. Ông nhớ lại hình ảnh mẹ khóc:
"Đến đoạn đường cái quan mà người làng tôi vẫn đi chợ, tôi lần xuống men thềm bờ ruộng để tránh gặp phải người quen. Được một đoạn thì tôi nhìn thấy mẹ tôi đang đi trên đường cái, đầu đội thúng, hai tay vung vẩy, bước thong dong, có lẽ bà từ chợ về. Tôi bối rối quá. Bụng dạ thúc tôi chạy lên với mẹ. Nhưng gặp giữa đường, lại đột ngột thế này thì cụ xúc động quá, làm sao dấu được bình tĩnh. Lỡ cụ khóc thì rầy rà to. Đang suy tính thì cụ nhận ra tôi. Cụ giơ tay vẫy. Tôi vẫy lại....
Để hoá trang, tôi phải bôi đen răng và đội nón cời sùm sụp giả dân quê đi làm ruộng, nhưng không thể mất cảnh giác.. Nét mặt mẹ tôi rất bịn rịn cứ nhìn tôi như muốn giữ chặt lấy đứa con trai, song miệng lại thốt lên: "Thôi con đi đi!".
Đi được một quãng, tôi quay lại nhìn, mẹ tôi vẫn đứng nguyên đó, im lìm. Tôi nhớ lại, thấy mẹ tôi tay lần bao thắt lưng, tôi hiểu bà muốn cho tiền nên đã xua tay, lắc đầu. Liền đó, mẹ đưa giải yếm lên chấm mắt...". (2)
Cho đến năm tuổi đã ngoại 70, Trần Độ vần còn như thơ bé trước mẹ ngày nào khi viết hồi ký:
"Tôi chẳng bao giờ quên được cảnh nằm ổ rơm cùng mẹ, nó thần tiên như chuyện cổ tích. Về mùa đông, ổ rơm là thứ sang trọng cuả người nghèo. Mẹ tôi cũng quây một ổ ở bếp. Sau một ngày lam lũ, bà lại ổ rơm nằm nghỉ, kéo chiếc chăn chiên phủ lên người tôi. Tôi chui vào nằm gọn trong lòng mẹ sực mùi rơm, lắng nghe bà rỉ rả kể Truyện Kiều, truyện Lục vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa. Cảnh gà mẹ ấp con nẩy trong hương lúa lan toả đưa tôi tới những giác mơ thần tiên ngày ấy, và cả đến bây giờ. Tình mẫu tử ấp ủ tôi suốt đời". (2)
Cái chất đằm thắm trong con người Trần Độ không chỉ thể hiện nơi tình cảm mẹ con mà ngay cả với người dì ghẻ:
"Mỗi lần ghé quê, tôi đều tới thăm dì. Thấy tôi, bà lại dấm dứt khóc. Bà bảo tôi :
- Nếu nó còn thì chắc chắn em nó sẽ theo anh, theo anh thì bây giờ cũng khá...
- Tôi xót xa an ủi bà
- Dì ơi, dì đừng khóc thêm đau khổ. Đằng nào em nó cũng đã yên phận. Bây giờ con là con dì, con về thăm dì cũng là em nó vẫn nhớ dì đó..." (2)
Lòng hiếu đễ của ông không chỉ dành cho mẹ, cho dì ghẻ mà cả cho Đảng, ngay cả khi cái Đảng này nó phụ bạc ông, khai trừ ông. Ông ngậm ngùi: "Tôi đã là đảng viên 58 năm (1940 - 1998). Tôi không có gì ân hận trong 58 năm đó. Đối với tôi như thế cũng là đủ cho tôi báo đền Tổ quốc và dân tộc, và tôi cũng đã được đền bù xứng đáng... Tôi vào Đảng là để tự nguyện phục vụ nhân dân và phụng sự Tổ quốc... Tôi không ở trong Đảng nữa, nhưng tôi vẫn là một công dân có trách nhiệm. Tôi nguyện vẫn vì Tổ quốc, vì nhân dân, vẫn suy nghĩ và sống với tất cả tâm lực của mình. Tôi kiên trì những ý kiến mà tôi đã phát biểu trong các bài viết và sẵn sàng đón nhận những lời phán xét của công luận".
Có lúc ông đã dằn vặt mình:
"Với gia đình, tôi là một người chồng, người cha tồi, một người con bất hiếu vì suốt đời đi xa, gần như không lúc nào sống với gia đình để chăm sóc vợ con, cha mẹ. Chiến tranh kết thúc thì đã quá ngũ tuần. Khi sống với gia đình thì lại ốm đau... Trước đây, trong chiến đấu ác liệt phải di chuyển nay đây mai đó, tôi không giữ được tập thư của các quyết tử quân. Tôi ân hận mãi về điều này..." (2)
Ông tự dằn vặt với cả sự thăng tiến của mình. Ông kể:
"Năm 1945, trước cách mạng Tháng tám, tôi hoạt động bí mật ở một vùng ngoại thành Hà Nội (huyện Đông Anh). Tôi ở một nhà cơ sở cách mạng. Gia đình có một bà mẹ và 2 người con gái. Chị lớn đã có chồng và con. Chị nhỏ hơn sau này lấy một anh trong đội của tôi. Bà mẹ nuôi nấng và che chở cho tôi như một đứa con, nhiều lúc cũng âu yếm mắng mỏ, dành cho tôi từ bát cơm nguội, bắp ngô, củ khoai.. Chị lớn cũng thế. Chị coi tôi là em trai. Các con chị gọi tôi bằng cậu rất thân mật tự nhiên và hay bắt rận, giặt quần áo cho cậu. Khi tôi vô ý ngồi trong buồng làm nổ súng, chị rất nhanh ý vào bếp đập vỡ cái nồi rang bằng đất để có cớ nói chuyện với hàng xóm, nếu có người nghe tiếng nổ mà sang hỏi thăm. Sau đó chị mới chạy lên xem tôi, chị nghĩ rằng có thể xẩy ra tai nạn: tôi bị thương hoặc chết.
Thế mà sau ngày 19 táng Tám ít lâu, tôi đã nhận công tác ở Hà Nội, trở lại thăm bà cụ và chị, thì tôi gặp một tình huống ngỡ ngàng. Cố nhiên, lúc này tôi ăn mặc sang trọng hơn, và đi xe hơi. Bà cụ mắt kém mãi mới nhận ra tôi. Bà cụ mừng rỡ, chào mời tôi: "Mời ông ngồi xơi nước". Bà cụ rất lễ phép rót nước mời tôi. Chị lớn cũng thế, không gọi tôi là cậu nữa, mà cũng lễ phép gọi tôi bằng ông. Tôi không thể tự nhiên được như xưa, không vui được và cũng không thích ứng được với danh vị "ông khách". Lúc ấy, tôi chỉ thấy lúng túng, tiếc nuối một thời trước đây" (3).
Nghe đoạn kể ấy ta mới có cơ sở để tin được vào một đoạn hồi ký khác của ông:
"Chúng tôi tôn anh Tô hữu Hạnh, người lớn tuổi nhất làm huynh trưởng của chúng tôi và dự kiến sau này chúng tôi sẽ tổ chức thành một nhóm tướng lĩnh đánh Tây để phục quốc. Thành công rồi thì anh Hạnh sẽ làm vua, các anh khác là tể tướng, nguyên soái, riêng tôi, tôi xin đến lúc đó sẽ đi tu. Không phải tu Phật, mà tu Tiên ở trên núi để được ẩn dật, sống cuộc đời của các Tiên ông ở nơi hoang vắng " (2).
Chúng ta cũng hoàn toàn có cơ sở để tin đoạn tự sự trong bài viếng đại tướng Lê Trọng Tấn:
"Mục đích cuộc sống của anh và của tôi chỉ là một. Chúng ta đánh giặc mà không hề nghĩ rằng chúng mình sẽ làm tướng, cho dù bây giờ anh là đại tướng. Chúng ta làm tướng để đánh giặc, chứ không phải đánh giặc để làm tướng. Và đó là điều gắn bó anh với tôi, không có sức mạnh nào phá vỡ nổi sự gắn bó đó.
Chúng ta sống với nhau tự nhiên, hồn hậu không cần phải bàn luận và nói nhiều điều to lớn về đoàn kết.
Nghĩ đến đây tôi bỗng thấy mình ngớ ngẩn mà tự hỏi mình rằng: Tại sao có những người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận được những ý tưởng, thậm chí quan điểm khác nhau và cả những điều khác nhau trong cách sống. Người ta phải gào to lên: Đoàn kết ! mà thật sự lại sống với nhau "không đoàn kết". Phải chăng người ta có thể tự tin vào ý tưởng và phương pháp của mình, cho nó là đúng nhất, là duy nhất cần thiết cho mục đích của cách mạng mà không nhận bất cứ ý kiến nào khác. Nếu họ thành thật nghĩ như vậy thì có thể cho rằng đó là cách nghĩ ngu ngốc nhất. Còn nếu không thì hẳn là phải có những động cơ cá nhân rất xấu xa, tồi tệ mà họ không dám nói ra, không dám thừa nhận.
Và khi người ta đã có những động cơ xấu xa, người ta không từ bỏ một thủ đoạn hiểm độc nào, kể cả thủ đoạn lừa lọc, cạm bẫy nhau và vu cáo, xuyên tạc.. Đó là một nỗi đau cho mỗi chúng ta. Chúng ta không như vậy. Và chúng ta có quyền tự hào về những điều đó" (2).
Cho nên, bằng trái tim nhân hậu, Trần Độ đã hơn một lần gào lên thống thiết: "Dân chủ, dân chủ, và dân chủ. Tiếng thét của lương tri cộng sản và lương tri dân tộc là như vậy đó... Càng nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới và đến thực trạng Đảng ta, tôi càng lo lắng bồn chồn, đến nỗi nhiều lúc phải chống bút mà ứa nước mắt, không cầm được". (3).
Giáo sư Nguyễn văn Hạnh, nguyên phó ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Đảng đã viết về Trần Độ như sau:
"Anh Độ tự tin và quyết đoán. Nhưng anh biết bình tĩnh lắng nghe ý kiến của người khác, kể cả ý kiến khác mình. Tôi chưa bao giờ thấy anh tỏ vẻ khó chịu khi những ý kiến trái với mình trong hội nghị, hoặc dùng quyền chủ toạ để cắt đứt ý kiến những người đang phát biểu. Khi nhận thấy ý kiến của người khác đúng hơn, hay hơn, anh chấp nhận vui vẻ, tự nguyện, không chút mặc cảm, sỹ diện, bất kỳ ý kiến đó là của ai.
Anh Độ thích tổ chức và tiến hành các cuộc thảo luận, tranh luận công khai trên báo chí về những vấn đề văn hoá, văn nghệ, khoa học. Anh tin rằng qua những cuộc thảo luận, tranh luận công khai, dân chủ, trung thực, nghiêm túc, nhiều điều sẽ được sáng tỏ; cái giả, cái ác sẽ bị phơi trần; cái thật, cái thiện sẽ được khẳng định " (2).
Nỗi băn khoăn day dứt đến đắng cay của Trần Độ
Trần Độ có 4 câu thơ giãi bầy tâm sự thật ngao ngán :
"Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xoá đi, thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hoá, ác luân hồi"
Ông có cùng một nỗi băn khoăn day dứt đến trở thành ân hận, cũng như nhà thơ - chiến sỹ Bùi Minh Quốc:
"Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này"
Trần Độ quả đã phó thác cả tuổi xuân, cả tính mệnh của mình cho "Những mơ xoá ác ở trên đời".
Năm 1939, ông tham gia làm báo "Người Mới" cùng với Nguyễn Thường Khanh, tức Trần Mai Ninh ở Hà Nội. Trong cuộc ruồng bố năm đó, ông bị Pháp bắt giữ nhưng không có chứng cứ để buộc tội nên ông lại được thả. Cuối năm 1941, ông lại bị bắt. Toá án Thái Bình xử án 15 năm tù giam. Ông kể:
"Mỗi nhát roi quất xiết lên da thịt rát bỏng như có lửa táp, dao cắt; nhưng chẳng mấy chốc chỗ đó tê đi. Thằng Talông đổi chỗ quất, khai thác cho hết sự đau đớn của cơ thể con người. Người tôi đầm đìa mồ hôi và máu, quằn quại dưới làn mưa roi... đến mức vãi phân, vãi đái lênh láng. Bẩn thỉu hôi thối quá, thằng Talông phải ra lệnh đưa tôi đi... Đến một hôm, chúng điệu tôi đi tra khảo. Vẫn những câu hỏi ấy và roi cặc bò vung vãi lên cơ thể tàn tạ của tôi. Rồi chúng mang ra một bát cơm trắng cùng một bát cứt và đôi đũa:
-Mày muốn ăn gì hả " Cơm đó, nói thì ăn, không thì ăn cứt đi.
Tôi giận sôi lên buồn nôn nhưng quyết không để chúng kéo dài trò tra khảo này. tôi bảo:
-Tôi không biết, làm sao mà nói !
Rồi tôi thản nhiên bưng lấy bát cứt, cầm đôi đũa ghém lại như sắp và vào miệng. Thằng Talông thấy thế ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục vun vén bát cứt. Lòng căm tức cũng giúp tôi bớt kinh tởm, càng nung nấu ý chí làm thất bại sự đểu cáng của chúng. Bữa đó mồm mép, mặt mũi tôi đầy cứt và tôi cố tình làm vung vãi bát cứt, buộc chúng phải bỏ ra khỏi phòng" (2).
Từ Hoả Lò, cuối năm 1941, Trần Độ bị đầy lên Sơn La. Tại đây, cùng thời gian này có các ông Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ... Năm 1943, trên đường giải từ Sơn La ra Côn Đảo, Trần Độ đã trốn thoát để ra ngoài tiếp tục hoạt động cách mạng.
Từ những hoạt động vận động cứu đói, tổ chức ám sát tên Việt gian Lý Khanh trong đoàn thanh niên ở các địa phương, lãnh đạo giành chính quyền ở Đông Anh..., ông chính thức bước vào cuộc đời binh nghiệp sau khi từ chối lời gợi ý làm Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Yên (Đào Duy Tùng làm phó) của trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ.
Thế là: 18 tuổi vào Đảng, 19 tuổi là tỉnh uỷ viên dự khuyết ở Thái Bình, 23 tuổi là chính uỷ Mặt trận Hà Nội, 27 tuổi là chính uỷ Đại đoàn, 32 tuổi là chính uỷ Quân khu, 35 tuổi được phong quân hàm thiếu tướng..., ông tả xung hữu đột, hết đánh đông dẹp bắc lại xung vào Miền Nam đảm nhận trọng trách Phó Chính uỷ Quân Giải phóng Miền Nam. Ông cứ vậy mải mê với lý tưởng vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân....
Nhưng... cho đến một ngày ông ngỡ ngàng nhận ra, ta: "đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo nhục nhã. Nhưng xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế của một chế độ độc đảng và toàn trị. Nhiều thói xấu giống như và cao hơn là chế độ cũ. Thế là ta đập tan một cái xấu xa và lại phải chấp nhận một cái xấu xa mới giống như hoặc tệ hơn tất cả những xấu xa mà ta từng chửi rủa, từng căm thù" (4). "Cái không giống với mơ ước thì nhiều, những cái giống với cái đã được đánh đổ cũng càng ngày càng nhiều. Và những gì trước đây ta khinh bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao" (4)
Tâm trí ông như bị cày xới tung lên khi thấy ta đã "tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa dối; lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi, cay đắng thay !" (4).

Lừa dối đến mức "Về mặt quyền lực, tuy trên các văn bản chính thức đều nói quyền lực chính trị nước ta là "do dân, vì dân, và của dân", rồi dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" nhưng trên thực tế không phải như vậy. Tất cả mọi cái đều do Đảng- nói cho đúng, do những đảng viên có quyền chức quyết định. Việc bầu các cơ quan đại diện của dân, kể cả cơ quan quyền lực tối cao, đều vẫn thực hiện theo lối "Đảng cử, dân bầu" cố hữu". Thế rồi "Hiến pháp thì quy định sự lãnh đạo độc tôn của Đảng, nhưng không hề quy định những trách nhiệm về mặt pháp lý của Đảng đối với nhân dân. Đảng làm đúng, dân nhờ, Đảng làm sai, dân chịu" (3).
Sở dĩ ngợp ngụa những dối lừa như vậy vì ngày nay "người Việt Nam phải sống trong một môi trường đầy ắp khẩu hiệu cổ động chính trị. Xã hội Việt Nam có quá nhiều hội họp, quá nhiều đại hội, quá nhiều diễu hành, cờ quạt, quá nhiều kỷ niệm, quá nhiều chào mừng, quá nhiều diễn văn quan trọng, và cả những diễn văn đọc nhầm" (3)
Ông đau khổ nhận ra "Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam... tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ... không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người mà nó huỷ hoại cuộc sống rất người của người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng. Nó đang làm hại cả một nòi giống" (4).
Càng đau khổ nữa là cái Đảng lý tưởng của ông ngày nay cũng không còn như xưa. Ngày nay "Không những Đảng với dân đã là hai, mà ngay trong Đảng cũng thành hai: một đảng gồm những người không có chức vụ, hoặc chức vụ thấp. Một đảng gồm những người có chức vụ cao và quyền lực quyền lợi cao. Hàng triệu chiến sỹ và nhân dân hy sinh đều không hề nghĩ rằng một kết quả quan trọng của sự hy sinh của họ lại là tình trạng thế này" (3).
Ông nghẹn ngào: "Đất nước thì tụt hậu với thế giới, còn Đảng thì tụt hậu với xã hội và dân tộc" (3).
Ngậm ngùi sao khi mở đầu tập Nhật ký Rồng Rắn, tác phẩm cuối đời, Trần Độ viết: "Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những ngày cuối năm Rồng, đầu năm Rắn và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người" (4)
Cho đến bây giờ, trên cõi niết bàn ta vẫn thấy Trần Độ như cứ ngẩn ngẩn, ngơ ngơ: "Tôi đã tham gia đập phá và phá tan một thứ chính quyền và cuộc sống như thế nào " Và tôi đã tham gia vào việc lập nên và củng cố một chính quyền thay thế như thế nào "" (3)
Nghĩ đến hoàn cảnh ấy, tôi càng xót thương Trần Độ, xót thương mình, xót thương cả một dân tộc quằn quại gian nan suốt nhiều thập kỷ qua, rồi để hàng triệu sinh linh vẫn cứ còn thao thiết mãi về nhũng hoài vọng đắng cay.
Đi tìm nguyên nhân
Theo Trần Độ "nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng" (3)
Nguyên nhân này bắt nguồn từ: "một sự biến động, sự biến chuyển và biến dạng, là một Đảng từ là một tổ chức và những con người hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan một bộ máy thống trị gian ác, giải phóng nhân dân sau khi đập tan được rồi thì lại trở thành một bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn là từ người giải phóng, biến thành người thống trị" (4).
Ơ đây nhiều học thuyết như học thuyết về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản được khai thác triệt để và "cái người vận dụng nó lại đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng như: "chủ nghĩa thành phần", "chủ nghĩa công nông", "chủ nghĩa lý lịch"... các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết giai cấp bị méo mó thành bất nhân bất nghĩa " (4).
Ơ đây "Đảng đã thực hiện một nền thống trị khe khắt, kiểm tra từng người trong toàn xã hội, kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống của xã hội. Và điều dã man tàn bạo nhất là độc tài về ý thức hệ. Bất cứ một sự khác biệt nào đều được quy vào là chống đối, là phản động, là tội phạm. Cái chế độ này có những hệ quả là trong xã hội không ai dám nói khác, không dám có ý nghĩ khác, không dám suy nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một đằng cũng phải nói một nẻo. Như vậy xã hội bao trùm một sự giả dối, lừa bịp, bao trùm một sự sợ hãi, bao trùm một sự tê liệt về tư duy và tình cảm" (4). "Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, nói năng gì. Thực ra nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt đời sống tinh thần của cả một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều" (4) "Sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những "lưu manh tư tưởng". Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói" (4) "Cũng do đặc điểm độc tài độc đoán cho nên mỗi người dân không được độc lập bộc lộ tài năng của mình (tuy rằng tài năng đó không hiếm) mà việc chọn lựa những người có trách nhiệm cứ theo lối phe phái, theo lối làm ăn cánh, theo lối nịnh bợ, cơ hội, theo lối "bầu cử có lãnh đạo" (Đảng cử dân bầu) thì tài năng cứ bị vùi dập, bị thui chột" (4).
Về vấn đề Đảng lãnh đạo, Trần Độ phát biểu: "Tôi vẫn tán thành và ủng hộ vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng. Nhưng lãnh đạo không có nghĩa là thống trị. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là đảng trị. Kinh nghiệm lịch sử trong nước và thế giới đã chứng minh rằng mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa tới thoái hoá, ruỗng nát, tắc tỵ không những của cơ thể xã hội mà cả cơ thể Đảng nữa" (3).
Ông kêu gọi "Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ "hiệp thương" mà thực chất là gò ép" (3).
Ông yêu cầu "Đảng cần phải khắc phục những nhận thức máy móc và sai lầm như: "Dân chủ phải có lãnh đạo". Câu đó có nghĩa là dân chủ phải có "không dân chủ". Lãnh đạo giỏi nhất là đảm bảo được dân chủ cho mọi người. Không phải Đảng là người có cái dân chủ rồi ban phát cho mọi người. Không phải là người dân phải xin xỏ từng tý dân chủ một ở Đảng. Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của nhân dân, của dân tộc. Đảng tự nguyện lãnh đạo để đảm bảo và mang lợi ích đến cho nhân dân và dân tộc như Hồ Chí Minh đã nói là công bộc của nhân dân. Vì vậy không thể lúc nào và ở đâu Đảng cũng tự nhận là người thay mặt nhân dân. Bất cứ lúc nào và ở đâu Đảng cũng không được nhân danh nhân dân mà cai trị nhân dân" (3).
Ông phản ứng gay gắt khi đọc dòng này trong Dự thảo báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng năm 1995: "Một nhà nước với bản chất và sứ mệnh lịch sử như vậy, về thực chất là nhà nước chuyên chính vô sản. Trong nội bộ Đảng, nhận thức đó cần được khẳng định rõ ràng": "Tôi hết sức ngạc nhiên về điều này. Vì ai cũng biết rằng trong cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ 7, khái niệm "chuyên chính vô sản" đã bị từ bỏ... vì trong khái niệm chuyên chính vô sản đã mang sẵn những yếu tố cơ bản của nhà nước toàn trị rồi. Khi toàn bộ quyền lực của nhà nước tập trung vào một nhóm nhỏ hoặc có khi vào một cá nhân khiến cho "dân chủ vô sản" chỉ còn là thuần tuý hình thức". (3) Ông nói: "Theo tôi, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm thực hiện một cách đầy đủ và triệt để Hiến pháp và luật pháp, chứ không phải ngược lại. Nếu muốn đặt Bộ Chính trị thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất như đã nói trong dự thảo thì phải sửa đổi Hiến pháp và ban hành những luật có giá trị pháp lý. Chẳng hạn cần có những điều khoản trong Hiến pháp để cố định những nội dung do dự thảo đề ra mà về thực chất cũng như về pháp lý đó là khẳng định chế độ đảng trị. Còn nếu không làm như vậy, thì phải coi những nội dung trong dự thảo về quyền hành của Bộ Chính trị là không hợp hiến" (3).
Tự cho mình cái quyền đứng trên Nhà nước, lại lợi dụng chuyên chính vô sản, Đảng còn chà đạp lên cả pháp luật. Trần Độ nghiêm khắc tố cáo: "Trong khi có sự tuyên truyền cho khẩu hiệu "Sống theo pháp luật" thì Đảng là người sống ngoài pháp luật, trên pháp luật trắng trợn nhất. Và Đảng cũng chỉ đạo các cơ quan Nhà nước làm như vậy. Xã hội ta ở trong tình trạng vô pháp luật thì người đầu têu là Đảng" (4)
Ông kêu gọi Đảng phải đổi mới, đổi mới thực sự, đổi mới triệt để, đổi mới toàn diện về:
- Tính chất chính trị của Đảng
- Nền tảng tư tưởng của Đảng
- Nguyên tắc tổ chức của Đảng
- Phương thức lãnh đạo của Đảng
- Phong cách công tác của Đảng (3).
Ông cho rằng "Phải trở lại bàn quan niệm" Đảng lãnh đạo "Nhà nước hay chính quyền là lãnh đạo những gì và lãnh đạo thế nào" Làm thế nào để Nhà nước là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự và trong thực tế. Muốn thế, Đảng phải trở thành nơi tập hợp và thu hút toàn bộ trí tuệ trong xã hội, bàn và quyết định những vấn đề phương hướng, đường lối, chính sách cơ bản và được toàn dân biết rõ và ủng hộ. Rồi các cơ quan nhà nước (cả ba mặt) đều dùng quyền hạn và quyền lực của mình thực hiện một cách độc lập và có giám sát" (3). "Đảng lãnh đạo thì phải có bộ máy nhà nước tương đối độc lập. Phải bảo đảm cho bộ máy nhà nước có hiệu lực, dân chủ và thực hiện được dân làm chủ. Như vậy phải có một nhà nước dân chủ pháp quyền. Dó mới thật là nhà nước do dân, vì dân và của dân chứ không phải nhà nước của Đảng, do Đảng, vì Đảng" (3).
Một cách tổng quát, Trần Độ phán định:
"Đảng này, ngày nay muốn bước ra khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải:
1- Xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nước bằng cách tôn trọng tất cả mọi người, nhất là những người trí thức, những người tài năng có chính kiến độc lập.
2- Phải thực hiện đúng Hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân được tự do làm ăn
3- Phải để cho mọi tổ chức, từ Chính phủ, Quốc hội Toà án đến các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức của mình có quyền độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình. Phải để cho công dân, nhất là thanh niên được suy nghĩ độc lập và có tư cách độc lập. Muốn thế phải xoá bỏ quyền lực của cơ quan tư tưởng và văn hoá của Đảng, thu hẹp quy mô, ảnh hưởng và định chức năng rõ rệt của các lực lượng công an. Nhà nước phải được chỉnh huấn về tư tưởng và tác phong "đầy tớ của nhân dân". Đảng phải tách khỏi nhà nước, không làm những việc thay cho nhà nước, thay chính phủ, quốc hội. Quốc hội phải được thành lập bởi những người thực sự có đức, có tài và do dân thực sự lựa chọn vô tư, không có bất cứ sự sắp xếp và "hiệp thương" nào.
4- Cụ thể là phải sửa ngay luật báo chí, xuất bản; công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân. Các báo chí có quyền độc lập của mình, không chịu sự "chỉ đạo" và kiểm soát của bất cứ cơ quan nào" (4)
"Phải đặt ra nghiên cứu cải cách lại toàn bộ hệ thống chính trị hiện có, xoá bỏ chế độ Đảng độc tôn lãnh đạo. Phải thực hiện đa nguyên, đa đảng" (4)
Ngoài nguyên nhân đảng trị độc tài còn một nguyên nhân cơ bản nữa dẫn đến nỗi thất vọng chua xót đối với cuộc cách mạng nước ta là do sự luẩn quẩn, hết "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội", lại "Định hướng xã hội chủ nghĩa"!
Về vấn đề này Trần Độ nêu lên một thực tế hiển nhiên bằng một giọng rất hài hước: "Rõ ràng là, từ năm 1975 đến 1985 ta đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước thống nhất. Và kết quả là những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước ngắc ngoải. Bây giờ nhân dân ta tươi tỉnh được một chút, lại cứ nhất định phải "Định hướng xã hội chủ nghĩa". Vậy định hướng vào cái "suýt chết" đó mà làm gì "" (3).
Và ông chất vấn: "Ta cần đất nước phát triển có đầy đủ cơm áo, tự do, hạnh phúc (tức là dân chủ) dù không có cái "Định hướng xã hội chủ nghĩa"; hay là ta cần một đất nước có "mác" xã hội chủ nghĩa, còn nghèo đói như cuối những năm 70 và đầu những năm 80 cũng được "" (3).
Ông khuyến nghị "Nếu đừng nói định hướng XHCN mà chỉ nói xây dựng CNXH thêm cái ngoặc vào là (dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh) với ngụ ý rằng cái CNXH ta xây dựng là cái xã hội đó. Hết sức quan trong là ở chữ xã hội công bằng và dân chủ vì đã dân chủ thì phải đả phá chuyên chính, đả phá toàn trị, đả phá độc quyền. Nếu đúng như vậy thì tôi vẫn hô: "Muôn năm chủ nghĩa xã hội", và tôi vẫn phê phán cái CNXH công hữu, bao cấp và quan liêu, hoặc là chống lại thứ CNXH đó thì cũng được" (4) "Có một cách hiểu CNXH thô thiển và nóng vội: chỉ cần xoá tư hữu và thực hiện công hữu thì có CNXH. Cách hiểu đó ngược lại tinh thần chủ nghĩa Mác. Mác thấy rằng sức sản xuất xã hội phải phát triển ở mức cao, cao đến độ không xã hội hoá không được, cao đến mức của cải thừa mứa, cần tổ chức sự phân phối cho công bằng hợp lý. Lúc ấy cần thực hiện những nguyên tắc của CNXH và mới có CNXH, còn nếu cứ gượng ép có CNXH trước khi đủ điều kiện thì chỉ có CNXH nghèo khổ và bất công... Trung Quốc nói thời kỳ quá độ dài đến hàng trăm năm. Cách nói đó cũng không đúng; quá độ là từ cái gì "quá độ" sang cái gì. Mác nói đó là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, còn ta hiện nay phải quá độ từ tiền tư bản chủ nghĩa lên thẳng hậu tư bản chủ nghĩa, từ tiền công nghiệp lên thẳng hậu công nghiệp, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa (đúng hơn là không qua chính quyền tư bản chủ nghĩa)" (4)
Để cưỡng bức dân tộc này phải chấp nhận chủ nghĩa xã hội một cách hình thức và giả dối, người ta tung ra luận điệu "Độc lập dân tộc phải thống nhất với CNXH", "yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội"! Thế là Trần Độ lại mỉa mai:
"Thế thì :
- a) Các cụ Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu... sinh vào thời chưa có xã hội chủ nghĩa thì các cụ có XHCN đâu mà yêu. Vậy các cụ đó có phải là người yêu nước không " Hay là các cụ đó cũng phạm tội chống CNXH "
- b) Các nước Nga và Đông Âu từ bỏ XHCN, vậy các nước đó có còn độc lập không và nhân dân các nước đó có còn là yêu nước không " Hay là hết mấy trăm triệu người đó cũng thành tay sai đế quốc cả "
- c) Thế giới ngày nay có mấy nước là độc lập phải XHCN và bao nhiêu nước không có CNXH vẫn cứ độc lập như thường" (3)
"Chúng ta phải làm một sự lựa chọn (khá khắc nghiệt đối với những người chủ trương "Định hướng xã hội chủ nghĩa") để có những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế và sự lựa chọn này không thể thực hiện theo lối nhập nhằng: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Giữa 2 cái phải chọn lấy một. Không thể bắt cá hai tay. Lấy sự phát triển đất nước hay lấy định hướng xã hội chủ nghĩa " Câu trả lời sẽ không khó nếu lấy lợi ích đất nước mà không phải là lấy lợi ích của Đảng làm đầu. Nói cách khác, sự phát triển kinh tế buộc phải từ bỏ sự lựa chọn theo "hệ tư tưởng" do Đảng đề xướng, và thực chất do Đảng áp đặt lên toàn xã hội" (3).
Kỷ niệm 2 năm ngày mất của tướng quân Trần Độ
9 tháng 8 năm 2002 - 9 tháng 8 năm 2004
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 - Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn - Từ Liêm - Hà Nội
Điện thoại : 5 534370
(Xin xem tiếp ngày mai)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.