*Tôm Việt Nam Và Trung Quốc Xuất Cảng Sang Hoa Kỳ Bị Đánh Thuế Cao
Quyết định của Hoa Kỳ áp dụng thuế anti-dumping đánh vào tôm nhập từ Việt nam và Trung quốc sẽ gây nguy hại cho hàng triệu nông dân. Đó là nhận định trong bài báo của hai phóng viên tạp chí Kinh Tế Viễn Đông là Margot Cohen từ Hà Nội và David Murphy từ Bắc Kinh. Theo hai nhà báo này thì dù quyết định của bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa được hoàn tất trước tháng giêng năm 2005, nhưng ngay từ bây giờ nó đã khiến Trung quốc và Việt Nam, hai nước đối thủ trong việc cạnh tranh với Thái Lan để vào thị trường tôm của Hoa Kỳ rơi vào cùng một chiến hào. Điều đáng nói là vụ này vẫn xảy ra với Trung quốc dù nước này đã là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Quyết định của Hoa Kỳ là áp dụng thuế nhập nội lên tới 93% đối với tôm nhập từ Việt Nam và 112% cho tôm Trung quốc. Tạp chí Kinh tế Viễn đông cũng trích lời của phát ngôn viên bộ Thương mại Trung quốc nói rằng nghề tôm của Hoa Kỳ không đủ đáp ứng nhu cầu rất lớn trong nước và đó là một thực tế Hoa Kỳ phải đối mặt. Một bài báo của tờ Kinh tế Viễn đông số ra ngày 22/07/2004 cho rằng chính Việt Nam mới là nước bị thiệt hại nhiều nhất dù có cả sự ủng hộ của phòng thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam. Năm ngoái, Hoa Kỳ nhập số tôm trị giá 588 triệu mỹ kim từ Việt Nam. Tờ báo này trích số liệu của Việt Nam nói đã có chừng 3 triệu 6 nông dân Việt Nam chuyển sang nghề nuôi tôm và ngoài ra có 400 ngàn công nhân làm việc trong ngành chế biến tôm và các nghề liên quan. Ngay từ bây giờ đơn đặt hàng cho nghề tôm ở Phú Yên sút giảm khiến một số doanh nghiệp đóng gói tôm đã phải sa thải 1/3 số công nhân.Giá tôm ở Sóc Trăng cũng giảm từ 20 đến 30%. Còn tại Trung quốc, vụ tôm thúc đẩy nước này tìm cách tránh ''nhãn hiệu'' là một nền kinh tế phi thị trường. Lý do là một khi bị coi là nền kinh tế phi thị trường, quốc gia họ dễ bị cáo buộc bán phá giá. Nhãn hiệu không hay ho này cho phép các nước tranh tụng đòi đánh giá lại giá sản xuất thực của quốc gia phi thị trường. Cách làm này là đòi so sánh chi phí sản xuất trong các nền kinh tế đang chuyển đổi như Trung quốc và Việt Nam với các sản phẩm tương tự tại các nước có nền kinh tế thị trường. Đây là cách mà các nước như Tân Tây Lan và Thái Lan đã làm đối với thị trường Trung quốc. Theo tạp chí Kinh tế Viễn đông chỉ có Liên hiệp Âu châu không muốn đánh giá hay xếp hạng các nền kinh tế khác, nhưng theo báo này thì một số phân tích gia cho rằng vụ áp dụng thuế tôm cao là dấu hiệu từ tòa Bạch ốc gởi đến Trung quốc rằng nước này cần phải thực hiện đúng các cam kết trong tổ chức WTO. Điều này có thể gợi ý một kết luận rằng dù Việt Nam hiện chưa là thành viên của WTO như Trung quốc, nhưng kể cả khi đã gia nhập WTO thì vẫn cần học kinh nghiệm của những gì đang xảy ra với Trung quốc hiện nay.
*Chỉ Trong 7 Tháng Đầu Năm 2004, Việt Nam Bị Thâm Thủng Mậu Dịch Đến 2,5 Tỷ Mỹ Kim
Mức thâm thủng mậu dịch của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay đã lên đến hơn 2,5 tỷ mỹ kim. Giá trị xuất cảng từ đầu năm đến nay tăng trưởng gần 22%, đạt hơn 14 tỷ mỹ kim. Trong khi đó, giá trị nhập cảng tăng hơn 17% đạt gần 17 tỷ mỹ kim. Nhập cảng các mặt hàng dệt may tăng hơn 43%, các mặt hàng điện tử và máy điện toán tăng gần 30%. Xuất cảng xe đạp và phụ tùng xe đạp tăng gần 70%, xuất cảng than hơn 66% và xuất cảng gạo tăng gần 18%.
Trong một tin khác, cuộc đối thoại giữa bộ Tài chánh với các doanh nghiệp khai mạc vào ngày 27 tháng 7 năm 2004 tại Hà Nội, với sự tham gia của chừng 400 doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp. Theo bộ Tài chánh thì những kiến nghị của doanh giới được đưa ra trong cuộc đối thoại sẽ được tập hợp theo từng lãnh vực có phân định rõ kết quả giải quyết. Trong dịp này, Thứ trưởng Trương Chí Trung cho hay bộ Tài chánh cộng sản Việt Nam sẽ tiến hành một chương trình cải cách hành chánh trong lãnh vực thuế và hải quan đến năm 2010. Đó là hai vấn đề bức xúc thường nhật của doanh nghiệp hiện nay, mặc khác bộ Thương mại cũng đang chuẩn bị ban hành nghị định chống bao cấp để bảo hộ sản xuất trong nước.
*Viễn Ảnh Thị Trường Hàng May Mặc Toàn Cầu
Ngành may mặc thế giới sẽ thay đổi ở mức độ toàn cầu khi quota chấm dứt vào đầu năm 2005. Đó là nhận định của bài phân tích trên báo Financial Times số ra ngày 19 tháng 7 năm 2004. Ngành dệt may tuyển dụng khoảng 40 triệu lao động trên toàn cầu và có doanh thu tới 350 tỷ mỹ kim mỗi năm.
Ba nước xuất cảng hàng may mặc bị khống chế bởi quota (hạn ngạch) vào tháng giêng năm 2005 đối với các nước là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO có nghĩa là Trung quốc không phụ thuộc vào cái gọi là hạn ngạch do Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu áp đặt từ trước tới nay bởi họ là thành viên của tổ chức này. Do đó các chuyên gia cho rằng Trung quốc sẽ là nước thống lãnh thị phần thế giới bởi không chỉ Trung quốc có qui mô sản xuất, giá thành thấp và tính cách hiệu quả mà còn do yếu tố bãi bỏ quota vừa nói. Ngoài ra người ta cũng nói tới thế mạnh của Trung quốc ở khả năng phản hồi nhanh cho đơn đặt hàng cũng như uy tín của ngành này tại Trung quốc, hơn nữa tập quán kinh doanh của người Trung quốc luôn cho thấy họ sẵn sàng lắng nghe nhu cầu của khách hàng. Các chuyên gia cho rằng các nước lấy may mặc làm ngành xuất cảng chủ chốt phải có những thay đổi lớn nếu còn muốn cạnh tranh chứ chưa kể duy trì khả năng tồn tại. Người ta dự kiến Trung quốc sẽ là nơi sản xuất và xuất cảng tới phân nửa hàng may mặc trên thế giới trong thời gian tới, đứng sau Trung quốc là Ấn Độ. Nên biết kể từ khi Trung quốc gia nhập WTO, xuất cảng hàng may mặc của nước này đã chiếm 25% tổng số hàng may mặc toàn cầu. Việt Nam hiện chưa là thành viên của WTO và do đó đang và sẽ vẫn chịu sự khống chế quota khi Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu bãi bỏ vào đầu năm 2005. Hơn nữa khung thuế cao cho các hàng rào thương mại vì Việt Nam chưa gia nhập WTO cũng là cản trở đáng kể đối với hàng may mặc xuất cảng đi các nước. Những nhận định mới đây cho rằng Hà Nội sẽ không được gia nhập WTO vào tháng giêng năm 2005 theo mục tiêu đề ra sẽ là cản trở đối với ngành may mặc. Chi phí cao từ cơ chế quota và cái gọi là phí quota cũng như không biết cụ thể thời hạn nào Việt Nam sẽ được gia nhập WTO đang làm mất đi các đơn đặt hàng. Xuất cảng may mặc của Việt Nam nở rộ từ tháng 12 năm 2001, khi Hà Nội và Washington ký hiệp định thương mại song phương. Doanh thu xuất cảng mặt hàng này tăng từ 49 triệu mỹ kim vào năm 2001 lên tới 2,5 tỷ mỹ kim vào năm 2003. Hàng dệt may của Việt Nam sang liên hiệp Âu châu trị giá tới 600 triệu mỹ kim và sang Nhật Bản ở mức 500 triệu mỹ kim vào năm 2003 và Việt Nam hiện tuyển dụng khoảng 2 triệu lao động trong ngành dệt may với khoảng 2000 nhà máy.
Hà Nội cũng đã và đang đàm phán với Liên hiệp Âu châu để hy vọng họ bỏ cơ chế quota đối với Việt Nam hầu duy trì và tạo thêm thị phần giúp ngành này trong giai đoạn chuyển tiếp. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết Việt Nam hy vọng liên hiệp Âu châu sẽ bỏ quota cho Việt Nam nhưng còn Hoa Kỳ thì hy vọng cho việc bỏ quota là điều khó thực hiện được. Ngành may mặc Việt Nam đang lo lắng về khả năng sống còn của ngành này vào năm 2005. Tại Hoa Kỳ, nơi nhập nhiều hàng may mặc nhất thế giới, Hiệp hội nhập khẩu cho rằng các nhà nhập khẩu hàng may mặc sẽ mua hầu hết hàng từ khoảng 5 hoặc 6 nước chứ không nhập từ khoảng 50 nước như hiện nay.
Ngoài Trung quốc và Ấn Độ thì các chuyên gia cho rằng khu vực Trung Mỹ và Đông Âu cũng có lợi thế bởi họ vốn đã có bề dày kinh nghiệm trong lãnh vực thời trang và có địa thế gần thị trường Hoa Kỳ và Tây Âu nên có thể chuyển các lô hàng tới đây nhanh hơn. Thái Lan, nước đứng đầu sản xuất lụa cũng được xem là trung tâm thời trang mới tại Á châu với các kỹ năng thiết kế mẫu thời trang đang phát triển mạnh.
Rào cản bằng quota ra đời từ năm 1974 khi Hoa Kỳ, châu Âu và các nước giàu chính thức bảo hộ ngành này thông qua cái gọi là Thỏa thuận sợi tổng hợp (MFA), theo đó các nước đang phát triển bị giới hạn bởi hạn ngạch. Trên thực tế, cơ chế quota có thể coi là một hình thức thuế đánh mặt hàng này và nó đã làm méo mó bức tranh may mặc cả về giá thành cũng như quy trình sản xuất. Việc bãi bỏ quota, thỏa thuận được chấp nhận cách đây 10 năm trong vòng đàm phán Uruguay theo dự kiến sẽ làm hạ giá các mặt hàng may mặc nhưng cũng sẽ đưa ra các thách thức lớn đối với các nước giàu lẫn những nước đang phát triển. Đối với những nước nghèo khác lấy may mặc làm mũi nhọn xuất khẩu như Bangladesh, (chiếm 75% doanh thu xuất cảng) thì việc bãi bỏ quota may mặc là một thảm họa đối với họ. Tại Liên hiệp Âu châu nơi có tới 2,7 triệu lao động trong ngành thì bãi bỏ quota cũng có nghĩa là các nước như Anh và Đức cũng bị mất lao động trong khoảng từ 13 đến 15%.
Quỷ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới cho rằng cơ chế quota làm các nước đang phát triển mất đi 40 tỷ mỹ kim và 27 triệu lao động mỗi năm.
Quyết định của Hoa Kỳ áp dụng thuế anti-dumping đánh vào tôm nhập từ Việt nam và Trung quốc sẽ gây nguy hại cho hàng triệu nông dân. Đó là nhận định trong bài báo của hai phóng viên tạp chí Kinh Tế Viễn Đông là Margot Cohen từ Hà Nội và David Murphy từ Bắc Kinh. Theo hai nhà báo này thì dù quyết định của bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa được hoàn tất trước tháng giêng năm 2005, nhưng ngay từ bây giờ nó đã khiến Trung quốc và Việt Nam, hai nước đối thủ trong việc cạnh tranh với Thái Lan để vào thị trường tôm của Hoa Kỳ rơi vào cùng một chiến hào. Điều đáng nói là vụ này vẫn xảy ra với Trung quốc dù nước này đã là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Quyết định của Hoa Kỳ là áp dụng thuế nhập nội lên tới 93% đối với tôm nhập từ Việt Nam và 112% cho tôm Trung quốc. Tạp chí Kinh tế Viễn đông cũng trích lời của phát ngôn viên bộ Thương mại Trung quốc nói rằng nghề tôm của Hoa Kỳ không đủ đáp ứng nhu cầu rất lớn trong nước và đó là một thực tế Hoa Kỳ phải đối mặt. Một bài báo của tờ Kinh tế Viễn đông số ra ngày 22/07/2004 cho rằng chính Việt Nam mới là nước bị thiệt hại nhiều nhất dù có cả sự ủng hộ của phòng thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam. Năm ngoái, Hoa Kỳ nhập số tôm trị giá 588 triệu mỹ kim từ Việt Nam. Tờ báo này trích số liệu của Việt Nam nói đã có chừng 3 triệu 6 nông dân Việt Nam chuyển sang nghề nuôi tôm và ngoài ra có 400 ngàn công nhân làm việc trong ngành chế biến tôm và các nghề liên quan. Ngay từ bây giờ đơn đặt hàng cho nghề tôm ở Phú Yên sút giảm khiến một số doanh nghiệp đóng gói tôm đã phải sa thải 1/3 số công nhân.Giá tôm ở Sóc Trăng cũng giảm từ 20 đến 30%. Còn tại Trung quốc, vụ tôm thúc đẩy nước này tìm cách tránh ''nhãn hiệu'' là một nền kinh tế phi thị trường. Lý do là một khi bị coi là nền kinh tế phi thị trường, quốc gia họ dễ bị cáo buộc bán phá giá. Nhãn hiệu không hay ho này cho phép các nước tranh tụng đòi đánh giá lại giá sản xuất thực của quốc gia phi thị trường. Cách làm này là đòi so sánh chi phí sản xuất trong các nền kinh tế đang chuyển đổi như Trung quốc và Việt Nam với các sản phẩm tương tự tại các nước có nền kinh tế thị trường. Đây là cách mà các nước như Tân Tây Lan và Thái Lan đã làm đối với thị trường Trung quốc. Theo tạp chí Kinh tế Viễn đông chỉ có Liên hiệp Âu châu không muốn đánh giá hay xếp hạng các nền kinh tế khác, nhưng theo báo này thì một số phân tích gia cho rằng vụ áp dụng thuế tôm cao là dấu hiệu từ tòa Bạch ốc gởi đến Trung quốc rằng nước này cần phải thực hiện đúng các cam kết trong tổ chức WTO. Điều này có thể gợi ý một kết luận rằng dù Việt Nam hiện chưa là thành viên của WTO như Trung quốc, nhưng kể cả khi đã gia nhập WTO thì vẫn cần học kinh nghiệm của những gì đang xảy ra với Trung quốc hiện nay.
*Chỉ Trong 7 Tháng Đầu Năm 2004, Việt Nam Bị Thâm Thủng Mậu Dịch Đến 2,5 Tỷ Mỹ Kim
Mức thâm thủng mậu dịch của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay đã lên đến hơn 2,5 tỷ mỹ kim. Giá trị xuất cảng từ đầu năm đến nay tăng trưởng gần 22%, đạt hơn 14 tỷ mỹ kim. Trong khi đó, giá trị nhập cảng tăng hơn 17% đạt gần 17 tỷ mỹ kim. Nhập cảng các mặt hàng dệt may tăng hơn 43%, các mặt hàng điện tử và máy điện toán tăng gần 30%. Xuất cảng xe đạp và phụ tùng xe đạp tăng gần 70%, xuất cảng than hơn 66% và xuất cảng gạo tăng gần 18%.
Trong một tin khác, cuộc đối thoại giữa bộ Tài chánh với các doanh nghiệp khai mạc vào ngày 27 tháng 7 năm 2004 tại Hà Nội, với sự tham gia của chừng 400 doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp. Theo bộ Tài chánh thì những kiến nghị của doanh giới được đưa ra trong cuộc đối thoại sẽ được tập hợp theo từng lãnh vực có phân định rõ kết quả giải quyết. Trong dịp này, Thứ trưởng Trương Chí Trung cho hay bộ Tài chánh cộng sản Việt Nam sẽ tiến hành một chương trình cải cách hành chánh trong lãnh vực thuế và hải quan đến năm 2010. Đó là hai vấn đề bức xúc thường nhật của doanh nghiệp hiện nay, mặc khác bộ Thương mại cũng đang chuẩn bị ban hành nghị định chống bao cấp để bảo hộ sản xuất trong nước.
*Viễn Ảnh Thị Trường Hàng May Mặc Toàn Cầu
Ngành may mặc thế giới sẽ thay đổi ở mức độ toàn cầu khi quota chấm dứt vào đầu năm 2005. Đó là nhận định của bài phân tích trên báo Financial Times số ra ngày 19 tháng 7 năm 2004. Ngành dệt may tuyển dụng khoảng 40 triệu lao động trên toàn cầu và có doanh thu tới 350 tỷ mỹ kim mỗi năm.
Ba nước xuất cảng hàng may mặc bị khống chế bởi quota (hạn ngạch) vào tháng giêng năm 2005 đối với các nước là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO có nghĩa là Trung quốc không phụ thuộc vào cái gọi là hạn ngạch do Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu áp đặt từ trước tới nay bởi họ là thành viên của tổ chức này. Do đó các chuyên gia cho rằng Trung quốc sẽ là nước thống lãnh thị phần thế giới bởi không chỉ Trung quốc có qui mô sản xuất, giá thành thấp và tính cách hiệu quả mà còn do yếu tố bãi bỏ quota vừa nói. Ngoài ra người ta cũng nói tới thế mạnh của Trung quốc ở khả năng phản hồi nhanh cho đơn đặt hàng cũng như uy tín của ngành này tại Trung quốc, hơn nữa tập quán kinh doanh của người Trung quốc luôn cho thấy họ sẵn sàng lắng nghe nhu cầu của khách hàng. Các chuyên gia cho rằng các nước lấy may mặc làm ngành xuất cảng chủ chốt phải có những thay đổi lớn nếu còn muốn cạnh tranh chứ chưa kể duy trì khả năng tồn tại. Người ta dự kiến Trung quốc sẽ là nơi sản xuất và xuất cảng tới phân nửa hàng may mặc trên thế giới trong thời gian tới, đứng sau Trung quốc là Ấn Độ. Nên biết kể từ khi Trung quốc gia nhập WTO, xuất cảng hàng may mặc của nước này đã chiếm 25% tổng số hàng may mặc toàn cầu. Việt Nam hiện chưa là thành viên của WTO và do đó đang và sẽ vẫn chịu sự khống chế quota khi Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu bãi bỏ vào đầu năm 2005. Hơn nữa khung thuế cao cho các hàng rào thương mại vì Việt Nam chưa gia nhập WTO cũng là cản trở đáng kể đối với hàng may mặc xuất cảng đi các nước. Những nhận định mới đây cho rằng Hà Nội sẽ không được gia nhập WTO vào tháng giêng năm 2005 theo mục tiêu đề ra sẽ là cản trở đối với ngành may mặc. Chi phí cao từ cơ chế quota và cái gọi là phí quota cũng như không biết cụ thể thời hạn nào Việt Nam sẽ được gia nhập WTO đang làm mất đi các đơn đặt hàng. Xuất cảng may mặc của Việt Nam nở rộ từ tháng 12 năm 2001, khi Hà Nội và Washington ký hiệp định thương mại song phương. Doanh thu xuất cảng mặt hàng này tăng từ 49 triệu mỹ kim vào năm 2001 lên tới 2,5 tỷ mỹ kim vào năm 2003. Hàng dệt may của Việt Nam sang liên hiệp Âu châu trị giá tới 600 triệu mỹ kim và sang Nhật Bản ở mức 500 triệu mỹ kim vào năm 2003 và Việt Nam hiện tuyển dụng khoảng 2 triệu lao động trong ngành dệt may với khoảng 2000 nhà máy.
Hà Nội cũng đã và đang đàm phán với Liên hiệp Âu châu để hy vọng họ bỏ cơ chế quota đối với Việt Nam hầu duy trì và tạo thêm thị phần giúp ngành này trong giai đoạn chuyển tiếp. Ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết Việt Nam hy vọng liên hiệp Âu châu sẽ bỏ quota cho Việt Nam nhưng còn Hoa Kỳ thì hy vọng cho việc bỏ quota là điều khó thực hiện được. Ngành may mặc Việt Nam đang lo lắng về khả năng sống còn của ngành này vào năm 2005. Tại Hoa Kỳ, nơi nhập nhiều hàng may mặc nhất thế giới, Hiệp hội nhập khẩu cho rằng các nhà nhập khẩu hàng may mặc sẽ mua hầu hết hàng từ khoảng 5 hoặc 6 nước chứ không nhập từ khoảng 50 nước như hiện nay.
Ngoài Trung quốc và Ấn Độ thì các chuyên gia cho rằng khu vực Trung Mỹ và Đông Âu cũng có lợi thế bởi họ vốn đã có bề dày kinh nghiệm trong lãnh vực thời trang và có địa thế gần thị trường Hoa Kỳ và Tây Âu nên có thể chuyển các lô hàng tới đây nhanh hơn. Thái Lan, nước đứng đầu sản xuất lụa cũng được xem là trung tâm thời trang mới tại Á châu với các kỹ năng thiết kế mẫu thời trang đang phát triển mạnh.
Rào cản bằng quota ra đời từ năm 1974 khi Hoa Kỳ, châu Âu và các nước giàu chính thức bảo hộ ngành này thông qua cái gọi là Thỏa thuận sợi tổng hợp (MFA), theo đó các nước đang phát triển bị giới hạn bởi hạn ngạch. Trên thực tế, cơ chế quota có thể coi là một hình thức thuế đánh mặt hàng này và nó đã làm méo mó bức tranh may mặc cả về giá thành cũng như quy trình sản xuất. Việc bãi bỏ quota, thỏa thuận được chấp nhận cách đây 10 năm trong vòng đàm phán Uruguay theo dự kiến sẽ làm hạ giá các mặt hàng may mặc nhưng cũng sẽ đưa ra các thách thức lớn đối với các nước giàu lẫn những nước đang phát triển. Đối với những nước nghèo khác lấy may mặc làm mũi nhọn xuất khẩu như Bangladesh, (chiếm 75% doanh thu xuất cảng) thì việc bãi bỏ quota may mặc là một thảm họa đối với họ. Tại Liên hiệp Âu châu nơi có tới 2,7 triệu lao động trong ngành thì bãi bỏ quota cũng có nghĩa là các nước như Anh và Đức cũng bị mất lao động trong khoảng từ 13 đến 15%.
Quỷ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới cho rằng cơ chế quota làm các nước đang phát triển mất đi 40 tỷ mỹ kim và 27 triệu lao động mỗi năm.
Gửi ý kiến của bạn