Thế giới thay đổi hẳn cách đây tròn bốn năm. Vụ khủng bố Hồi Giáo quá khích cướp phi cơ đánh sập Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới và tấn công Ngũ Giác Đài vào ngày 11/9/2001 khởi đầu cho một kỷ nguyên mà tệ nạn khủng bố quá khích quyết tử giết hại dân lành vô tội được xem là sự thách đố lớn nhất của thế giới. Lòng căm thù rõ rệt mà bọn khủng bố quá khích dành cho thế giới Tây Phương cùng những giá trị dân chủ, tự do mà thế giới này ấp ủ, cộng với sự quyết tâm cuồng tín của chúng trong việc dùng bạo lực để khẳng định và áp đặt quan điểm tôn giáo cực đoan lên những người chung quanh là một mối đe dọa thường trực và đáng ngại.
Trong thời gian bốn năm vừa qua, người ta đã mục kích những cảnh tượng tàn phá kinh hồn dã man ở Bali, ở Madrid, ở Iraq, ở Palestine - Do Thái, ở A Phú Hãn, ở Nga, ở Luân Đôn.v.v.. Và cho đến bây giờ vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy những sự kiện tàn khốc vô lý này có cơ hội suy giảm hoặc kết thúc. Chưa bao giờ mà người ta cảm thiếu an ninh như bây giờ. Ngay cả trong thời Chiến Tranh Lạnh với nguy cơ chiến tranh nguyên tử bùng nổ tiêu hủy nhân loại, người dân ở các quốc gia Tây Phương, kể cả Úc, có lẽ cũng không cảm thấy lo âu, thiếu an toàn như hiện nay.
Thế rồi, vụ khủng bố quyết tử ôm mìn tấn công Luân Đôn vào ngày 7/7/2005 vừa qua lại một lần nữa tạo chấn động khắp thế giới vì nó là một biến chuyển mới trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu: phần lớn các tên khủng bố dường như đều là công dân Anh Quốc, là những kẻ nội thù hơn là những tên ngoại tặc. Quần chúng lại càng có thêm lý do để âu lo hơn nữa. Trong một cuộc thăm dò dân ý do cơ quan ACNielsen tổ chức vào khoảng cuối tháng 8/05 vừa qua thì 70% dân Úc cho là Úc sẽ bị khủng bố tấn công trong vòng hai năm tới đây. Thông thường, khi dân chúng cảm thấy bất ổn, lo âu về vấn đề trị an thì họ sẽ dễ dàng chấp thuận và khứng chịu những biện pháp khắt khe mà chính phủ đề ra nhân danh trật tự trị an. Việc này đã khiến cho các chính phủ Tây Phương, đặc biệt là Hoa Kỳ, Anh Quốc và Úc Đại Lợi, đưa ra một số biện pháp bảo vệ an ninh có vẻ như tấn công những giá trị tự do dân chủ thiêng liêng quý giá của xã hội mà họ muốn bảo vệ.
Tuần qua, noi gương chính phủ Tony Blair của Anh trước đấy vài tuần, thủ tướng John Howard và tổng trưởng tư pháp Philip Ruddock đã công bố tổng quát một số biện pháp chống khủng bố khá nghiêm khắc, bao gồm:
cho phép Cảnh Sát Liên Bang (Federal Police) được quyền xin lệnh kiểm soát 12 tháng (12-month control order) những người mà họ cho rằng có thể là mối hiểm họa cho xã hội, buộc những người này phải liên tục đeo dụng cụ (tracking devices) giúp cảnh sát dễ bề theo dõi mọi cử động của họ; mặc dù những người này chưa bao giờ bị kết tội (never convicted) gì cả;
cho giới thẩm quyền liên bang được phép “câu lưu để phòng ngừa” (preventive detention) những kẻ bị tình nghi là có thể có hành động khủng bố với thời gian lên đến 48 giờ mà không cần phải truy tố khác với luật định trước kia;
gia tăng quyền hạn của nhân viên công lực để “ngăn chận, tra vấn và lục soát” (stop, question and search) mà không cần bằng chứng.
Thêm vào đó, ông Howard cũng đề nghị một số dự luật nhằm cấm cản và tội-phạm-hóa (outlaw) những lời phê bình “mang tính xách động bạo động” (inciting violence) hoặc khuyến khích những hành động bạo động chống quân đội Úc viễn chinh hay những bình luận được xem như “yểm trợ các thế lực thù địch với Úc” (supported Australia’s enemies). Ngay cả việc để hành lý không có người canh giữ (unattended luggage) tại phi trường cũng sẽ trở thành một hành vi phạm pháp.
Đáng kể hơn nữa, ông Howard còn vạch rõ, để có thể vô hiệu hóa một số quyền hiến định, chẳng hạn như việc buộc phải thả người dân nếu sau 48 giờ câu lưu mà không thể truy tố họ, ông sẽ kêu gọi sự hợp tác từ chính phủ tiểu bang để họ đưa ra những đạo luật cho phép nhân viên công lực câu lưu bất kỳ một người nào bị tình nghi có dính líu đến quân khủng bố trong suốt 14 ngày liên tục mà không cần phải truy tố, vì chính quyền tiểu bang không bị hiến pháp liên bang chế tài.
Ông Howard lý luận rằng những biện pháp này rất cần thiết trong thời đại khủng bố hoành hành như hiện nay. Thế nhưng, chính phủ Howard lại không đính kèm cho những dự luật này một điều khoản giới hạn thời gian hiệu lực (sunset clause). Điều này có nghĩa một khi được chấp thuận và ban hành thành luật,chúng sẽ hiện hữu vĩnh viễn.
Có một số dư luận ủng hộ lập luận của ông Howard. Những người này cho rằng nước Úc quả là một bộ phận của một thế giới đang bị vây hãm thật nguy khẩn (under siege), và vì thế, dân chúng Úc phải sẵn sàng chấp nhận một vài hy sinh nho nhỏ cần thiết hầu có thể bảo đảm cho an ninh xã hội, bảo đảm cho nếp sống tự do dân chủ truyền thống của Úc, của thế giới tự do Tây Phương. Họ cho rằng phải có những liều thuốc hơi đắng như những đề nghị của ông Howard thì mới ngăn ngừa được những bệnh tật có thể xảy ra từ hành vi của bọn Hồi Giáo cực đoan quá khích (radical Islamist), trong nước cũng như ngoài nước, vốn đang mong muốn đạp đổ những giá trị dân chủ nhân bản của Úc.
Nhưng bên cạnh đó, nhiều người đã thẳng thắn bày tỏ mối quan tâm của họ về những đề nghị của TT Howward bởi vì nó ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp đến nếp sống tự do dân chủ truyền thống của xã hội Úc. Hội Đồng Luật Gia Úc (Law Council of Australia) tấn công những đề nghị này vì chúng sẽ hủy hoại lần lần các dân quyền (civil liberties) căn bản nhất ở Úc, như quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do hội họp. Hơn thế nữa, như giáo sư George Williams thuộc đại học NSW nhận xét, “lý do chính của những đạo luật này là để bảo vệ nền dân chủ và sự tự do của chúng ta. Thế nhưng, chính chúng lại mang đến những nguy hiểm lớn lao nhất cho những giá trị này - một sự nguy hiểm lớn lao hơn cả nguy cơ do chủ nghĩa khủng bố tạo nên”.
Mặc dầu ông Howard vẫn khăng khăng khẳng định rằng chính phủ liên bang luôn chú trọng đến nhu cầu cân bằng quyền tự do cá nhân của từng người dân và quyền lợi chung của xã hội vốn cần được bảo vệ trước hiểm họa khủng bố, mặc dầu ông phủ nhận những lời chỉ trích cho rằng các biện pháp mà ông đề xướng sẽ là những bước đầu đưa xã hội Úc thành một xã hội cảnh sát trị, nhưng ngay chính những dân biểu bạch đinh (backbenchers) thuộc đảng Tự Do, như các ông Petro Giorgiou, George Brandis và bà Marise Payne, cũng bày tỏ sự quan ngại của họ về phong cách chính phủ cố áp đặt những đề nghị này như một sự đã rồi để buộc dân biểu thuộc liên đảng phải yểm trợ và thông qua chúng tại quốc hội. Họ cũng tỏ ra e dè trước việc những đề nghị này thiếu các chi tiết cụ thể để có thể được điều nghiên phân tích kỹ lưỡng.
Vì thế, trong hoàn cảnh chính trị xã hội hiện nay, chúng ta - những người đã từng phải sống dưới chế độ độc tài công an trị của cộng sản Việt Nam, từng thấy dân quyền và nhân quyền bị chà đạp, và vì thế, trân quý các giá trị tự do dân chủ của Úc - cần phải có nhận xét và hành động chính đáng hầu bảo vệ dân quyền và nhân quyền ngay tại quê hương thứ nhì của chúng ta. Đồng ý rằng nguy cơ khủng bố tấn công Úc là một chuyện có thật, nhưng liệu nguy cơ ấy có trầm trọng đến độ chính phủ phải áp dụng các biện pháp chống khủng bố khe khắt như thế không"
Đồng ý rằng tiền đồn chống khủng bố là mạng lưới cảnh sát bảo an và tình báo hữu hiệu, thế nhưng, có phải những giá trị chuộng dân chủ tự do của xã hội Úc cùng với chính sách đa văn hóa hiện hành mới chính là vũ khí hữu hiệu nhất trong việc chống bọn quá khích đang muốn chia rẽ xã hội hầu gieo mầm mống bất mãn tạo cơ hội cho ý tưởng cực đoan quá khích bắt rễ tại Úc"
Vào khoảng cuối tháng 9/05 tới đây sẽ có một cuộc họp thượng đỉnh về vấn đề chống khủng bố giữa chính phủ liên bang và các chính phủ tiểu bang. Chúng ta hãy hành xử quyền công dân của chúng ta và bày tỏ mối quan ngại của chúng ta trực tiếp đến các vị thủ hiến cũng như đến các dân biểu và thượng nghị sĩ thuộc chính phủ liên bang, để ít nhất, yêu cầu chính phủ, nếu quyết định ban hành những biện pháp chống khủng bố nói trên, thì phải đính kèm điều khoản hạn chế thời gian hiệu lực của chúng. Có vậy, tương lai tự do dân chủ của Úc mới không bị lạm dụng dưới chiêu bài chống khủng bố hiện nay.
Trong thời gian bốn năm vừa qua, người ta đã mục kích những cảnh tượng tàn phá kinh hồn dã man ở Bali, ở Madrid, ở Iraq, ở Palestine - Do Thái, ở A Phú Hãn, ở Nga, ở Luân Đôn.v.v.. Và cho đến bây giờ vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy những sự kiện tàn khốc vô lý này có cơ hội suy giảm hoặc kết thúc. Chưa bao giờ mà người ta cảm thiếu an ninh như bây giờ. Ngay cả trong thời Chiến Tranh Lạnh với nguy cơ chiến tranh nguyên tử bùng nổ tiêu hủy nhân loại, người dân ở các quốc gia Tây Phương, kể cả Úc, có lẽ cũng không cảm thấy lo âu, thiếu an toàn như hiện nay.
Thế rồi, vụ khủng bố quyết tử ôm mìn tấn công Luân Đôn vào ngày 7/7/2005 vừa qua lại một lần nữa tạo chấn động khắp thế giới vì nó là một biến chuyển mới trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu: phần lớn các tên khủng bố dường như đều là công dân Anh Quốc, là những kẻ nội thù hơn là những tên ngoại tặc. Quần chúng lại càng có thêm lý do để âu lo hơn nữa. Trong một cuộc thăm dò dân ý do cơ quan ACNielsen tổ chức vào khoảng cuối tháng 8/05 vừa qua thì 70% dân Úc cho là Úc sẽ bị khủng bố tấn công trong vòng hai năm tới đây. Thông thường, khi dân chúng cảm thấy bất ổn, lo âu về vấn đề trị an thì họ sẽ dễ dàng chấp thuận và khứng chịu những biện pháp khắt khe mà chính phủ đề ra nhân danh trật tự trị an. Việc này đã khiến cho các chính phủ Tây Phương, đặc biệt là Hoa Kỳ, Anh Quốc và Úc Đại Lợi, đưa ra một số biện pháp bảo vệ an ninh có vẻ như tấn công những giá trị tự do dân chủ thiêng liêng quý giá của xã hội mà họ muốn bảo vệ.
Tuần qua, noi gương chính phủ Tony Blair của Anh trước đấy vài tuần, thủ tướng John Howard và tổng trưởng tư pháp Philip Ruddock đã công bố tổng quát một số biện pháp chống khủng bố khá nghiêm khắc, bao gồm:
cho phép Cảnh Sát Liên Bang (Federal Police) được quyền xin lệnh kiểm soát 12 tháng (12-month control order) những người mà họ cho rằng có thể là mối hiểm họa cho xã hội, buộc những người này phải liên tục đeo dụng cụ (tracking devices) giúp cảnh sát dễ bề theo dõi mọi cử động của họ; mặc dù những người này chưa bao giờ bị kết tội (never convicted) gì cả;
cho giới thẩm quyền liên bang được phép “câu lưu để phòng ngừa” (preventive detention) những kẻ bị tình nghi là có thể có hành động khủng bố với thời gian lên đến 48 giờ mà không cần phải truy tố khác với luật định trước kia;
gia tăng quyền hạn của nhân viên công lực để “ngăn chận, tra vấn và lục soát” (stop, question and search) mà không cần bằng chứng.
Thêm vào đó, ông Howard cũng đề nghị một số dự luật nhằm cấm cản và tội-phạm-hóa (outlaw) những lời phê bình “mang tính xách động bạo động” (inciting violence) hoặc khuyến khích những hành động bạo động chống quân đội Úc viễn chinh hay những bình luận được xem như “yểm trợ các thế lực thù địch với Úc” (supported Australia’s enemies). Ngay cả việc để hành lý không có người canh giữ (unattended luggage) tại phi trường cũng sẽ trở thành một hành vi phạm pháp.
Đáng kể hơn nữa, ông Howard còn vạch rõ, để có thể vô hiệu hóa một số quyền hiến định, chẳng hạn như việc buộc phải thả người dân nếu sau 48 giờ câu lưu mà không thể truy tố họ, ông sẽ kêu gọi sự hợp tác từ chính phủ tiểu bang để họ đưa ra những đạo luật cho phép nhân viên công lực câu lưu bất kỳ một người nào bị tình nghi có dính líu đến quân khủng bố trong suốt 14 ngày liên tục mà không cần phải truy tố, vì chính quyền tiểu bang không bị hiến pháp liên bang chế tài.
Ông Howard lý luận rằng những biện pháp này rất cần thiết trong thời đại khủng bố hoành hành như hiện nay. Thế nhưng, chính phủ Howard lại không đính kèm cho những dự luật này một điều khoản giới hạn thời gian hiệu lực (sunset clause). Điều này có nghĩa một khi được chấp thuận và ban hành thành luật,chúng sẽ hiện hữu vĩnh viễn.
Có một số dư luận ủng hộ lập luận của ông Howard. Những người này cho rằng nước Úc quả là một bộ phận của một thế giới đang bị vây hãm thật nguy khẩn (under siege), và vì thế, dân chúng Úc phải sẵn sàng chấp nhận một vài hy sinh nho nhỏ cần thiết hầu có thể bảo đảm cho an ninh xã hội, bảo đảm cho nếp sống tự do dân chủ truyền thống của Úc, của thế giới tự do Tây Phương. Họ cho rằng phải có những liều thuốc hơi đắng như những đề nghị của ông Howard thì mới ngăn ngừa được những bệnh tật có thể xảy ra từ hành vi của bọn Hồi Giáo cực đoan quá khích (radical Islamist), trong nước cũng như ngoài nước, vốn đang mong muốn đạp đổ những giá trị dân chủ nhân bản của Úc.
Nhưng bên cạnh đó, nhiều người đã thẳng thắn bày tỏ mối quan tâm của họ về những đề nghị của TT Howward bởi vì nó ảnh hưởng sâu đậm và trực tiếp đến nếp sống tự do dân chủ truyền thống của xã hội Úc. Hội Đồng Luật Gia Úc (Law Council of Australia) tấn công những đề nghị này vì chúng sẽ hủy hoại lần lần các dân quyền (civil liberties) căn bản nhất ở Úc, như quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do hội họp. Hơn thế nữa, như giáo sư George Williams thuộc đại học NSW nhận xét, “lý do chính của những đạo luật này là để bảo vệ nền dân chủ và sự tự do của chúng ta. Thế nhưng, chính chúng lại mang đến những nguy hiểm lớn lao nhất cho những giá trị này - một sự nguy hiểm lớn lao hơn cả nguy cơ do chủ nghĩa khủng bố tạo nên”.
Mặc dầu ông Howard vẫn khăng khăng khẳng định rằng chính phủ liên bang luôn chú trọng đến nhu cầu cân bằng quyền tự do cá nhân của từng người dân và quyền lợi chung của xã hội vốn cần được bảo vệ trước hiểm họa khủng bố, mặc dầu ông phủ nhận những lời chỉ trích cho rằng các biện pháp mà ông đề xướng sẽ là những bước đầu đưa xã hội Úc thành một xã hội cảnh sát trị, nhưng ngay chính những dân biểu bạch đinh (backbenchers) thuộc đảng Tự Do, như các ông Petro Giorgiou, George Brandis và bà Marise Payne, cũng bày tỏ sự quan ngại của họ về phong cách chính phủ cố áp đặt những đề nghị này như một sự đã rồi để buộc dân biểu thuộc liên đảng phải yểm trợ và thông qua chúng tại quốc hội. Họ cũng tỏ ra e dè trước việc những đề nghị này thiếu các chi tiết cụ thể để có thể được điều nghiên phân tích kỹ lưỡng.
Vì thế, trong hoàn cảnh chính trị xã hội hiện nay, chúng ta - những người đã từng phải sống dưới chế độ độc tài công an trị của cộng sản Việt Nam, từng thấy dân quyền và nhân quyền bị chà đạp, và vì thế, trân quý các giá trị tự do dân chủ của Úc - cần phải có nhận xét và hành động chính đáng hầu bảo vệ dân quyền và nhân quyền ngay tại quê hương thứ nhì của chúng ta. Đồng ý rằng nguy cơ khủng bố tấn công Úc là một chuyện có thật, nhưng liệu nguy cơ ấy có trầm trọng đến độ chính phủ phải áp dụng các biện pháp chống khủng bố khe khắt như thế không"
Đồng ý rằng tiền đồn chống khủng bố là mạng lưới cảnh sát bảo an và tình báo hữu hiệu, thế nhưng, có phải những giá trị chuộng dân chủ tự do của xã hội Úc cùng với chính sách đa văn hóa hiện hành mới chính là vũ khí hữu hiệu nhất trong việc chống bọn quá khích đang muốn chia rẽ xã hội hầu gieo mầm mống bất mãn tạo cơ hội cho ý tưởng cực đoan quá khích bắt rễ tại Úc"
Vào khoảng cuối tháng 9/05 tới đây sẽ có một cuộc họp thượng đỉnh về vấn đề chống khủng bố giữa chính phủ liên bang và các chính phủ tiểu bang. Chúng ta hãy hành xử quyền công dân của chúng ta và bày tỏ mối quan ngại của chúng ta trực tiếp đến các vị thủ hiến cũng như đến các dân biểu và thượng nghị sĩ thuộc chính phủ liên bang, để ít nhất, yêu cầu chính phủ, nếu quyết định ban hành những biện pháp chống khủng bố nói trên, thì phải đính kèm điều khoản hạn chế thời gian hiệu lực của chúng. Có vậy, tương lai tự do dân chủ của Úc mới không bị lạm dụng dưới chiêu bài chống khủng bố hiện nay.
Gửi ý kiến của bạn