Hôm nay,  

Đêm Trung Thu Cùng Chú Cuội Trông Xuống Thế Gian Cười

12/09/200500:00:00(Xem: 5408)
-Năm 8 sau tây lịch, Vương Mãng cướp ngôi Hán Tuyên Đế mới có 2 tuổi, rồi tự xưng làm vua , đổi nước là Tân. Theo Trung Hoa sử, Vương Mãng cũng như Tể tướng Lý Tư của nhà Tần, là những nhà chính trị đầu tiên áp dụng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, qua các công cuộc tịch thu ruộng đất, và các cơ sở vật chất của toàn dân để quốc doanh. Nhưng cũng giống như thời nay, xã nghĩa chỉ là món hàng treo đầu dê bán thịt chó,đã tạo cơ hội tốt cho bọn tham quan nhũng nhiễu bóc lột dân đen và vơ vét công khố mà thôi. Do trên lòng người ta thán, đã theo Lưu Tú là cháu sáu đời của Vua Hán Cảnh Đế, chống lại nhà Tân, rốt cục Mãng bị lật đổ và chết vào năm 23 sau TL. Trong thời gian chống nhau với quân thù, một lần nghĩa binh của Lưu Tú bị mấy chục vạn quân của Vương Mãng vây khổn trong thành Côn Dương tỉnh Hà Nam. Trước tình cảnh cực kỳ nguy khốn, trong hết lương, ngoài chưa binh cứu, nên vào ĐÊM RẰM THÁNG TÁM, Lưu Tú cầu Trời Phật giúp đỡ và ông đã tìm thấy trong thành nhiều bưởi trái và khoai môn. Quân sĩ nhờ vậy có ăn và giữ vững thành, giúp Tú trung hưng lại nhà Hán. Vì vua Quang Vũ (Lưu Tú) dời đô từ Hàm Dương về Lạc Dương (Hà Nam), nên nhà Hán từ đó gọi là Đông Hán. Đêm rằm tháng tám âm lịch năm 25 sau TL, vua làm lễ tạ trời đất, và vì muốn kỷ niệm lại những vật đã nuôi sống mình cùng quân sĩ trong cơn hoạn nạn, nên ban lệnh khắp toàn quốc, dùng hai món trên làm vật cúng thần và thưởng trăng. Như vậy tết Trung Thu đã manh nha từ ấy. Cũng theo sử, vua Đường Huyền Tông (713-756) niên hiệu Văn Minh, là một ông vua tài trí nhưng vì đắm lụy nhan sắc khuynh thành của quý phi Dương ngọc Hoàng, gây nên loạn An Lộc Sơn, khiến cho nhà tan nước mất, dân chúng điêu linh trong một thời gian dài. Chính nhà vua trong một đêm rằm tháng tám, mơ thấy mình lên tận cung trăng, đã cùng Hằng Nga và đoàn tiên nữ đờn ca xướng hát. Sau đó, trong buổi lâm triều nhân có sứ Tây Vực dâng điệu muá của đạo Bà La Môn. Vốn là một vị vua giỏi cầm kỳ âm nhạc, Đường Huyền Tôn bèn nhập chung hai vũ khúc, tạo thành một Vũ Điệu Nghê Thường, tập cho cung nữ, để ngày ngày họ trình tấu múa may, giúp vui cho vua và Dương Phi. Cũng từ đó, lễ trông trăng truyền thống vào đêm rằm tháng tám âm lịch hằng năm, được vua cải là TẾT TRUNG THU, ngoài hai lễ cúng trời đất củ, còn có thêm nhiều loại bánh bột vuông hay tròn, trên mặt có in bốn chữ Trung Thu Nguyệt Bỉnh. Tập tục này về sau đựợc truyền khắp các nước Đông Nam Á theo tam giáo : Phật, Nho và Lão cũng như ở những nơi có Hoa Kiều lập nghiệp, trong đó có Việt Nam. Khi nói đến Tết Trung Thu là nói đến trăng và mùa thu cùng những câu chuyện thật buồn của các thi gia đời Đường, liên quan đến vua Huyền Tông, tác giả cuả Nghê thường vũ khúc. Người đời thì hoan lạc với những cổ đèn lồng muôn màu vạn sắc cùng với tiếng trống muá lân, múa rồng. Trái lại thi gia trông trăng đêm thu thì ngổn ngang đứt ruột , nhất là lúc trăng xế héo tàn. Với thi nhân, cảnh thu thật là buồn bã u trầm, gợi cho ta vô vàn tưởng tiếc. Một mình trong đêm trăng thu, luôn tạo nên những cảm giác diết da buồn tẻ, khiến cho ai cũng thêm lẻ loi trống vắng. Cho nên tết trung thu như tên gọi vì có trăng trong gió mát, cũng chẳng qua là một ước lệ tập truyền. Nếu không thế, sao Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu dám viết :
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
trần thế em nay chán nữa rồi
..rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
tựa nhau trông xuống thế gian cười ."

1-TRĂNG THU VỚI LÝ BẠCH, ĐỔ PHỦ, BẠCH CƯ DỊ VÀ TRƯƠNG KẾ :
Năm 589 Tuỳ thống nhất Trung Quốc , kết thúc cuộc nội chiến kéo dài trên 270 năm, khởi từ nhà Đông Tấn. Nhưng không lâu, Tuỳ lại mất vào nhà Đường năm 618 sau TL. Kinh đô lại được dời từ Lạc Dương ( Hà Nam) về Trường An (Thiểm Tây) cực bắc nước Tàu. Đường Thái Tông ( Lý Thế Dân) được coi như là một Đại Đế kiệt hiệt nhất trong mấy ngàn năm lịch sử của Trung Hoa. Với chủ trương " Dân quý, nước mạnh từ dân còn nhà cầm quyền là đồ bỏ" như câu danh ngôn còn truyền tụng đến ngày nay " Vua có thể ví như thuyền còn dân là nước. Thuyền đi nhờ nước nhưng nước cũng làm cho thuyền chìm". Nhờ vậy đã làm cho nước Tàu thời đó cực thịnh và hùng mạnh, tạo điều kiện phát triển các thành phố lớn tại Trường An, Thành Đô, Lạc Dương, Quảng Châu..Song song với quân sự, kinh tế, chính trị, xã hôi..thời Đường văn chương, thi phú cũng đạt tới mức cực thịnh. Vẫn theo các nguồn sử liệu, thơ Dường là đỉnh cao cuả nền thi ca cổ điển Trung Quốc và thời đại hoàng kim này được đánh giá trong giai đoạn thịnh Đường (713-766) qua các thi hào thuộc phái lãng mạn nổi tiếng nhất, gồm có Thi Tiên Lý Bạch (701-762), Thi Thánh Đổ Phủ (712-770), Giang Châu Tư Mã (Bạch Cư Dị) và Trương Kế . Cả bốn thi hào đều có liên quan tới Đường Huyền Tôn-Dương Quý Phi, nhân vật cuả Tết Trung Thu và Nghê Thường Vũ Điệu..tới nay vẫn được người đời nhắc nhớ và hâm mộ.
Trong các thi nhân dẫn trên, từ nguồn sử liệu cho thấy Lý Bạch là người liên quan mật thiết với cả Huyền Tôn và Dương Phi. Câu chuyện Lý Bạch ngồi chễm chệ trước ngai vàng, bắt quan thái sư mài mực, Cao Lực Sĩ cởi giày, để ông viết thư trả lời bằng tiếng Khiết Đan với người Hung Nô hay được vua cho phép cỡi ngựa vào tận Ngũ Phụng lầu uống ruợu, thưởng thức hoa mẫu đơn với Huyền Tôn và Dương Phi, đã nói lên sự sủng ái cuả một đấng quân vương với một thiên tài trác tuyệt, không màng vinh hoa phú quý, mà chỉ xin được an nhàn để say sưa với đất trời. Với cả ngàn bài thơ còn truyền tụng đến ngày nay, bài nào cũng được đánh gia là tuyệt tác nhưng với thi nhân vốn cùng chung tâm sự, coi thi rượu là tâm giao, lẽ sống, nên nhiều người thuộc làu bài Tương Tiến Tửu :
" Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai
Bôn lai đáo hữu bất phục hồi :
Đã nói lên cái ảo ảnh của cuộc đời, nhất là trong cơn say, khi Lý Bạch đang rót rượu từ ly vào miệng, bổng như tưởng tượng đó là nước sông Hoàng hà từ trời tuôn xuống. Cái âm tiết kéo dài của dòng rượu qua nước khi người say đã ực, trôi mãi trôi mãi, có khác chi chuyện đời trong cõi đời, đã qua rồi thì thôi đừng hối tiếc, vì dòng đời sẽ không bao giờ chảy ngược.
" Sáng tóc xanh, chiều bổng bạc phơ
đời đắc ý hãy vui cho
chén vàng đừng để hững hờ dưới trăng."
Từ đây rượu là tri kỷ của thi nhân vốn cả đời độc ẩm cùng trăng, mặc cho tóc xõa bay khi đang bạn cùng rượu. Tất cả đã trở thành hư vô, rượu là ta và ta cũng là cõi nhân tình thế thái.
Riêng thi thánh Đổ Phủ, trong hơn 1400 bài thơ còn truyền tụng. Tất cả được đánh giá là những thi sử và đồ kinh, qua ngòi bút hiện thực và trái tim đầy ấp tấm lòng nhân đạo, cho ta đọc suốt những trang sử máu của loạn An Lộc Sơn và hậu quả.lệ máu trùng trùng.
Trong bài Thạch Hào Lại, Đổ Phủ kể câu chuyện một đêm tại thôn Thạch Hào, thuộc Huyện Thiềm, Tỉnh Hà Nam, trong nhà cuả một đôi vợ chồng già bên vệ đường. Giữa đêm, mắt thấy tai nghe cảnh bắt lính, nhà thơ phẫn uất viết bài thơ trên, để vẽ lên bức tranh vân cẩu của thời đại chinh chiến và bộ mặt thật của đám quan quân tàn ác mọi thời. Bài thơ cũng là một ký sự ghi cảnh ông già tóc bạc vượt tường trốn lính, giữa cảnh quát tháo của đám quan lính giữa đêm khuya. Ký sự là truyện kể, không có cảnh thật để kể thì vết ký sự làm gì, điều này cho thấy Đổ Phủ đã thành công vượt bực trong loại thi sử ký sự. Tại VN, xưa nay khi nhắc đến Đổ Phủ, ai cũng thuộc lòng bài thơ trên vì nó đã nói lên được tiếng khóc ấm ức từ lớp dân hèn, nghèo trong mọi thời. Đối với hạng dân nghèo hèn này, khóc dù đã khóc cũng chẳng qua để nuốt vào bụng những uất ức nghẹn ngào. Và vì no bụng bởi nước mắt, nên dằn xuống không được phải ói ra và vì thế nên khi không khi có vì có cũng chẳng làm được gì.
Nhưng Đổ Phũ cũng là thi sĩ của mùa thu và phần lớn các sáng tác đều lấy mùa thu làm bối cảnh như bài Mao Oác Vi Thu Phong Sở Phá Ca hay Thu Hứng được Nguyễn công Trứ dịch rất xuất sắc. Tháng tám mùa thu trăng trong gió mát, trong lúc mọi người ca tụng trăng thu thì Đổ Phủ cũng nói về mùa thu tháng tám trong cảnh trời cao lồng lộng gió. Gió lớn chẳng những làm tốc gian nhà cỏ nghèo nàn xơ xác của tác giả, mà còn vẽ lên cái cảnh đời cười ra nước mắt khi lũ trẻ nghèo hàng xóm nhân đó cướp tranh mang về, khiến nạn nhân chỉ còn biết xót xa cho thân phận vì không còn chỗ ở , chỉ biết vịn gáy thở than hoài. Thật ra giá trị của một tác phẩm hay đời người, đều từ nỗi đau của tác giả và ở đây Đổ Phủ qua thân phận mình, đã nói lên cảnh đoạn trường của dân chúng nhà Đường do vua Huyền Tôn vì luyến ái sắc dục, đến đổi làm hư quốc sự, khiến nước dân đồ thán., mất đi hai lẽ sống bình thường là nhà ở và cơm áo, khoa bảng và trí thức như Đổ Phủ không có chúng cũng không làm được gì. Mùa thu dĩ nhiên là buồn dù có là tết trung thu hay đêm trông trăng, nhất là đối với thi nhân rất dị ứng với những cảm xúc ngẫu hứng không tên. Trong Đường thi, khi nhắc đến mùa thu, ngoài trăng ta hay thấy tả cảnh rừng phong vàng lá xác xơ, phủ đầy nổi tiêu điều bi thảm vì sướng núi bạc mái đầu. Thu đã buồn mà còn thêm cảnh tha hương bạc bẻo, gió thu lạnh,trăng thu héo, nhìn đâu cũng thấy nổi hoang sơ vàng úa như chính kiếp người, thì trách sao không nghĩ tới tình quê , tình nước " Mùa thu cũng là mùa trăng, chính cái lưu luyến ấy đã làm cho con người đảo điên theo trăng, khi không khi có, lúc sáng lúc sầu, đam mê huyễn hoặc, nát rối tâm hồn. Tóm lại đời Đổ Phủ luôn chan hoà máu lệ, nên trăng và thu cũng ưá máu theo cuộc đời.
Bạch Cư Dị còn được đời biết đến qua danh xưng Giang Châu Tư Mã vì năm Nguyên Hòa thứ 10, tức năm 715 sau TL, ông bị giáng chức và đổi ra Cửu Giang ( huyện ly đóng tại Giang Châu) làm tư mã. Một đêm mùa thu tháng tám, tiên sinh tiễn bạn trên bến sông Bồn, bổng nghe được tiếng tỳ bà vọng lại từ mái thuyền trong đêm lạnh. Hỏi ra mới biết đó là một ca kỹ đất Trường an năm nào, do hương phai nhụy uá phải trôi giạt phương người. Cảm xúc vì người vì ta, tác giả viết Tỳ Bà hành là một đề tài viết về người phụ nữ cổ Trung Hoa, nói lên sự thương xót vô vàn của xã hội bất công trong quan niệm trọng nam khinh nữ :
" Đời người không nên làm phụ nử
trăm năm vui khổ cũng do người "
Ngoài ra, Giang Châu Tư Mã còn có Trường Hận Ca cũng là một kiệt tác, nói lên lúc An Lộc Sơn làm loạn, Đường Huyền Tôn cùng Dương Quý Phi phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Tại Mã Ngôi, vì vua người đẹp đã thắt cổ chết, để lại mối trường hận cho một hoàng đế đa tình như lời dích của Tản Đà :
" sông Ngân lấp lánh sao thưa
trời như muốn sáng nhưng chưa sáng trời "


Trong khi kinh thành Trường An tan tác giữa tiếng hò reo của loạn tướng An Lộc Sơn, nhà vua bỏ chạy và khổ đau nơi những hành cung héo hắt , thì Tiến Sĩ Ngự Sử Đài Trương Kế vì theo phò vua không kịp, phải lênh đênh trốn giặc trên một chiếc tuyền con nơi Trường Giang băng lạnh . Một đêm, thuyền ghé bến Phong Kiều. Tác giả trong một thoáng tủi thân, bức xúc, trước cảnh vật thê lương, đã viết " Phong Kiều Dạ Ba.c " Nay vẫn còn là tuyệt tác lưu danh thiên cổ :
"Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự
Dạ bán chung thành đáo khách thuyền "
Lời thơ mô tả tâm sự u uất qua hình ảnh trăng lặn, nói lên xã hội tang tóc, lại có tiếng quạ kêu sương khác nào tiếng người lẻ loi trong cơn ly loạn. Đời buồn cảnh càng buồn thêm trong màn đêm u ám, le lói xa xa ánh lửa thuyền chài, đủ đê nghe tiếng lá bàng xào xạc ven sông nhưng không đánh thức nổi giấc men nồng của Cô Tô thành trong cơn mê đám. Trong nổi u trầm, bổng nhặt khoan một hồi chuông Hàn San tự , làm cái cảm giác bàng hoàng lẩn thoáng bớt một chút ưu tư cho người bôn tẩu trong thời chiến loạn.

2-TẾT TRUNG THU ĐỐT ĐÈN LỒNG CHƠI TRĂNG :
Tính đến nay lể hội đêm Trung Thu đã gần tròn 2000 tuổi nhưng vì là một mỷ tục nên không bị thời gian đào thải, trái lại càng lúc càng được nhiều người ưa thích nhất là giới trẻ. Sự phồn thực làm phát triển nhiều nền công nghiệp có liên quan đến ngày lễ như làm các đầu lân, sư tử, rồng, các đồ chơi của trẻ con bao gồm nhièu kiều đèn lồng, đèn kéo quân và loại đèn tạ treo trong nhà nhưng trên hết vẫn là bánh trung thu. Ngày nay tuy con người đã thực sự đã đi vào cõi không gian , đổ bộ lên mặt trăng và đang ghé vào hỏa tinh là một hành tinh xa xôi vợi vợi để mong tìm đất sống cho con người trần gian, sắp bị nạn nhân mãn đẩy xuống biển. Tuy nhiên không phải vì thế mà các câu chuyện diễm tình có tự ngàn đời truyền lại như mối tình Hằng Nga Hậu Nghệ, Chuyện Đường Minh Hoàng lên cõi trăng học vũ khúc Nghê Thường hay Thằng Cuội ngồi ôm gốc đa già khóc cười nhân thế mỗi độ trăng tròn tháng tám hằng năm. Trung Thu thực chất là thế, theo âm dương tuần hoàn thì mỗi năm có bốn mùa, tám tiết và tứ kỳ là xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí. Tháng tám giữa mùa thu, nên gói là tiết trung thu và sau đó được các nhà vua Hán Quang Vũ cùng Đường Huyền Tôn chọn làm Tết chơi trăng. Theo cổ học Đông Phương, trăng thuộc về Thủy trong ngũ hành, vốn là yếu tố then chốt để quyết định nghề nông tang. Cho nên bảo Tết Trung Thu là một mỹ tục cũng không có gì quá đáng, bởi đêm trăng tròn tháng tám, ngoài dịp tốt tạo nguồn cảm hứng cho thi nhân, đem sự vui vẻ náo nhiệt cho trẻ con, trên hết vẫn là mục đích để mọi giới theo dõi vầng trăng to tròn sáng úa mà đoán định tương lai vận mạng quốc gia và tiên liệu công việc làm ăn có dính tới mùa màng, tằm tơ canh cửi. Tất cả các thú chơi trăng như múa rồng, đốt đèn lồng và thưởng thức các loại bánh trong đêm trung thu, không phải từ trên trời rớt xuống mà đều có nguồn gốc, có đi tìm hiểu mới thấy thú vị.

** MÚA RỒNG MỪNG TRĂNG THU :
Rồng là linh vật được nhiều nước trên thế giới sùng bái nhất là người cổ Trung Hoa. Đối với dân tộc VN, rồng là vật tổ. Người ta tôn rồng là vật linh thiêng, thần kỳ mà nghiêm trang, là chỗ dựa để người đời khẩn cầu xin mưa gío, bảo đảm mùa màng. Vì vậy trong đêm trung thu, múa rồng được xem như một nghi thức tôn giáo cầu mưa, để mùa màng bội thu, dân an quốc thái. Lể tục này cũng khởi nguồn từ thời Đông Hán, từ trong nghi lễ tôn giáo , trở thành một điệu múa dân gian lưu hành khắp xứ tồn tại tới ngày nay. Vì mang tính chất truyền thống, nên các tiết mục về rồng cũng rất phong phú và đa dạng. Riêng tại Trung Quốc, chỉ tỉnh Triết Giang cũng đã có nhiều hội múa rồng. Điều này cũng dễ hiểu vì Triết Giang là cội nguồn của Bách Việt, một giống dân có nguồn gốc khởi từ sông rạch, biển sóng, nên vật tổ của họ là cá sấu, thần rồng, nên dù chỉ là con rồng vải, nhưng người múa trong một tâm hồn phóng khoáng đã làm cho con vật ảo trở nên uy vũ, toát lên cái hào khí sung mãn của một giống dân, tùng làm cho Hán tộc lao đao nể sợ. Dù cho bất kỳ loại nào, rồng giấy cũng được đan bằng tre ở suốt phần mình rồng, bên ngoài dán giấy hoặc bọc lụa mỏng trên có nhiều vảy lấp lánh. Bên trong có đèn thắp sáng. Mình rồng có nhiều bộ phận có thể tách rời tuỳ theo vị trí biểu diễn nhưng không vì thế mà làm mất cái linh hoạt của rồng dưới ánh đèn. Múa rồng ở đâu cũng không ngoài 12 thế căn bản như bàn long, ngưỡng long, trảo dương, thoát thủ..và tuyệt điệu " bách khiếu long " khiến rồng khi biểu diễn, biến một thân hình dài trên 500m, từ một con giao long nhe nanh muá vút bay lượn trên tầng trời, lại hóa thành một tầng hoa sen chín cánh hiền khô như bóng Phật.
** BÁNH TRUNG THU :
Trong đêm ngóng trăng, người ta uống trà và ăn các loại bánh trung thu. Cũng liên quan tới bánh này, sử Tàu có câu chuyện thú vị về mật lịnh trong nhưn bánh trung thu. Điển tích xảy ra trong thời kỳ Trung Hoa sống đước ách nô lệ của Mông Cổ từ năm 1279 khi Hốt Tất Liệt diệt nhà Nam Tống, thống nhát toàn cõi Trung Nguyên, lập ra triều Nguyên. Trong suốt 80 năm bị đô hộ, giới trí thức Hán Tộc bị người Mông khinh rẽ qua câu nói ví :"..thứ tám là đĩ, thứ chín nho gia, thứ mười hành khuất ". Bởi vậy trong triều ngoài nội, tất cả các địa vị then chốn đều là Mông Cổ còn người Hán và các dân tộc khác như Liêu Kim bị coi thường. Chính sự bức bách bất công đó, là nguyên nhân của phong trào nông dân bạo động lật đổ nhà Nguyên, quang phục lại đất nước của người Hán qua triều Minh của dòng họ Chu. Nội loạn chống Mông Cổ khởi sự từ Nguyên Thuận Đế năm 1337, do Châu Quang Khanh và Bạng Hồ xướng xuất tại Quảng Châu và Tín Dương. Rồi thì Bạch Liên Giáo của cha con Hàn Sơn Đồng, Hàn Lâm Nhi, thêm Trương sĩ Thành, Trần hữu Lương..lót dường cho nhà sư Chu Nguyên Chương tại Tập Khánh, Nam Kinh thành công . Rằm tháng tám năm 1368, tướng của Chương là Từ Đạt và Thường Ngô Xuân mang mật kế của quân sư Lưu Bá Oân, tấn công Yến Kinh là thủ phủ của Nguyên Triều. Đêm Trung Thu, trong lúc vua chuá Mông Cổ say sưa rượu gái, thì khắp nơi trong kinh thành, dân chúng khi cắt bánh trung thu để cúng, đã kinh ngạc vì giữa nhưn bánh có một mếng giấy vàng nhỏ với nội dung " khuya ngày rầm Phật Di Lặc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước ". Và chính trong đêm trăng đó, cửa thành mở hoắc, dân chúng cầm đèn lồng đi lại, quân cuả Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân nhân cơ hội trà trộn và bất thần chiếm thành. Nguyên Thuận Đế cũng giống như Đường huyền Tôn, vì đắm mê Nghê Thường vũ khúc, phải mất nước và bị người Hán đánh đuổi chạy về sa mạc. Từ đó cho tới nay, con cháu càng lụn bại, đến đổi phải mất vùng Nội Mông .
Bánh trung thu còn được gọi là bánh trăng hay bánh Hồ vì người Hán đã lấy các nguyên liệu tại đát Hồ để chế biến. Bánh theo từ nguyên đã có từ thời huyền sử Aân-Chu, người dân vùng Giang-Triết dùng để cúng Thái Sư Vân Trọng có đất phong ở miền này. Khởi thủy bánh làm bằng bột, đường cùng những nhu liệu được sứ thần nhà Hán là Trương Thiên mang về từ Tây Vực như hạt Mè, Hồ đào và hạt dưa hấu. Từ Đường Minh Hoàng, bánh chính thức có mặt trong đêm Trung Thu và được nhà vua ban cho mỹ danh là Bánh Nguyệt. Tại Trung Quốc xưa nay có rất nhiều nơi sản xuất bánh này, nhưng cũng có thể phân biệt được nhờ những yếu tố chuyên môn như võ và nhưn bánh. Nói chung dù có sản xuất tại Bắc Kinh, Ninh Ba,Thượng Hải, Tô Châu, Quảng Châu, Hồng Kông, Đài Loan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Thái Lan hay Sài Gòn, Chợ Lớn..thì nguyên tắc làm bánh trung thu vẫn không ra ngoài những nguyên tắc làm võ bánh ( vỏ bột, vỏ bột trộn đường, vỏ bột có pha dầu). Còn nhưn bánh thì luôn đủ năm thứ thịt khô, trứng, mè, đậu và các loại hạt khác. Tuy nhiên trên thi trường, Bắc Kinh và Thiên Tân chuyên sản xuất bánh chay làm bằng dầu và thực vật. Bánh Quảng Đông chưa ít mở nhưng rất ngọt. Triều Châu đặc biệt về vỏ bánh nhiều lớp mỏng, nhưn rất béo vì quá nhiều dầu. Đặc biệt nhất là bánh Tô Châu có nhiều mùi do các loại hạt làm nhưn bánh, võ thì chế bằng bột mì tẩm dầu đậu phộng. Về hình thức, bánh có ba loại mặt trơn, võ in hoa và bánh Tôn Ngộ Không. Tại VN xưa nay, nghề làm bánh Trung Thu vẩn do người Việt gốc Hoa tại Sài Gòn-Chợ Lớn độc quyền. Bánh làm theo kiểu Quảng Đông và Triều Châu là hai nhóm người Hoa định cư nhiều nhất ở nước ta.

** ĐÈN LỒNG TRUNG THU :
Tại VN, hai thành phố Hội An và Sài Gòn cung cấp đèn lồng cho cả Miền Nam VN trước ngày 30-4-1975, trong dịp tết Trung Thu. Nghề thủ công này do người Việt làm chủ, Phú Bình trước thuộc quận 11 là địa danh nổi tiếng về nghề làm đèn lồng. Đây là một làng của người Việt miền bắc di cư vào Nam từ năm 1954. Họ đến từ Làng nhuộm Báo Đáp, tỉnh Nam Định. Vào Nam vẫn giữ nghề tổ truyền nhuộm vải, làm giầy dép và lồng đèn Trung Thu. Sau năm 1975, nghề trên vẫn phát triển bình thường nhưng rồi một biến cố chết người đã đến vào năm 1994, khi VC mở khẩu đón hàng ngoại nhập của Trung Cộng, Dài Loan, Hồng Kông..trên đất Việt. Từ đó, lồng đèn Trung Thu do người Tàu sản xuất đã đè bẹp lồng đèn Phú Bình VN vì kiểu đèn mới lạ, kỹ thuật cao, dùng pin thay đèn cầy và trên hết là giá rẻ so với lồng đèn nội địa, đã thô kệch lại hay cháy khi ra gió. Đây cũng là chuyện thường của Xã Nghĩa VN như chúng ta hằng biết qua cá tra, hàng may mặc rồi tôm lạnh. Tất cả chỉ nhắm vào lợi trước mắt chứ không bao giờ nghĩ tới cải tiến để làm ăn cạnh tranh, nên dân chúng bị thua thiệt và sập tiệm là cái chắc. Đây là định luất sinh tồn biết đâu mà mò.
Trung thu rồi lại Trung Thu nhưng muôn đời tiếng kêu thảm thiết bán trăng cuả nhà thơ Hàn mặc Tử vẫn vang vọng. Đứng trong trăng sáng mà cứ thắp đèn lồng để tìm bóng trăng soi như Tản Đà đã làm, khiến cho ta càng chơi vơi theo bóng trăng mờ, trăng tỏ. Tết Trung thu biết mượn hồn nào gởi vào thời gian, để cùng với chú Cuội già cười khóc trong lúc trăngtàn ". Hỡi ơi trăng chỉ một bóng thì làm sao soi đủ muôn phương, nói chi đến nỗi ngậm ngùi man mác của bóng trăng soi, trong cơn lốc vô thường của cõi thế, dù là buổi trăng trong gío mát, cũng chỉ là cõi trống vọng biển dâu muôn trùng .
" có bầu có bạn can chi tũi
cùng gió cùng mây thế mới vui
rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
tựa nhau trông xuống thế gian cười. ..(thơ Tản Đà "
Xóm Cồn
Trung Thu 2005

HỒ ĐINH
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
VN thi văn hợp tuyển Dương Quảng Hàm
Phong tục VN của Toan Aùnh
Điển tích chọn lọc của Mộng Bình Sơn và tài liệu của Mạc Sum..

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.