Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông

12/08/200500:00:00(Xem: 5321)
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang vừa được xuất bản. Qúy độc giả có thể mua sách qua internet bằng cách lên Website Google (google.com) đánh máy chữ “ho ledinh”, rồi theo sự hướng dẫn của các websites.]

Hỏi (Trần Quốc Quy): Tôi đến Úc từ năm 1993 với tư cách là người tỵ nạn, được hưởng quy chế thường trú nhân, nhưng mãi đến nay tôi vẫn chưa được nhập tịch vì những lý do sau đây:
Thoạt tiên, với tư cách là người tỵ nạn, tôi đã lơ là đến việc nhập tịch để trở thành công dân Úc. Đối với tôi cũng như những thường trú nhân tại Úc, việc nhập tịch để trở thành công dân Úc chỉ là vấn đề thuộc về thủ tục giấy tờ nên không có gì quan trọng. Hơn nữa, tôi nghĩ là tôi không cần phải về Việt Nam nên không quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, vào năm 1998, xui cho tôi là tôi lái xe bất cẩn và tông chết người, mặc dầu không phải hoàn toàn do lỗi của tôi, nhưng tôi đã bị phạt tù 2 năm và được phóng thích khi tôi thụ hình được 18 tháng.
Sau khi được phóng thích tôi đọc về điều kiện nhập tịch và thấy đây sẽ là vấn đề nan giải, và cảm thấy lo lắng hơn khi mình không hội đủ các điều kiện luật định để nhập tịch. Tuy thế, tôi vẫn không nộp đơn xin nhập tịch. Cho mãi đến đầu năm nay, khi em tôi báo cho biết, mẹ tôi bị bệnh nặng tôi mới làm đơn xin nhập tịch.
Cách đây mấy tuần lễ, tôi nhận được thư của Bộ Di Trú báo cho biết là đơn xin nhập tịch của tôi đã bị Bộ từ chối dựa theo điều 13(1)(f) với lý do tôi là người có tánh hạnh xấu, và cho tôi được quyền chống lại quyết định đó của Bộ trong vòng 28 ngày.
Tôi đã tự nộp đơn kháng án và đang chờ sự phúc đáp của Tòa.
Xin LS cho biết là liệu việc chống lại quyết định đó của Bộ có thành công hay không" Từ ngày qua Úc đến nay tôi làm việc liên tục, ngoại trừ những tháng bị tù vì tội lái xe bất cẩn. Tôi không có bằng cấp gì cao lắm, chỉ tốt nghiệp trường TAFE và hiện hành nghề thợ tiện.
Trả lời: Điều 13(1)(f) của “Đạo Luật về Công Dân Úc 1948”[nói nôm na là đạo luật quy định việc nhập tịch Úc] (the Australian Citizenship Act 1948) quy định rằng: “Theo điều khoản này, Bộ Trưởng có thể ... cấp phát chứng thư công dân Úc cho người chứng minh thỏa đáng cho Bộ Trưởng rằng: . . . (f) đương sự là người có tánh hạnh tốt.” (Subject to this section, the Minister may . . . grant a certificate of Australian Citizenship to a person who satisfies the Minister that: . . . (f) the person is of good character; . . .).
Trong vụ Bernard Lewis Moore v. Minister for Immigration No.Q/342 AAT No.12093. Trong vụ đó, người nộp đơn xin nhập tịch là ông Moore. Moore sinh năm 1951. Đến Úc năm 1963. Ông ta nộp đơn xin nhập tịch vào năm 1995 nhưng đã bị từ chối căn cứ vào điều 13(1)(f) của Đạo Luật về Công Dân Úc, vì Bộ cho rằng ông ta không phải là người có tánh hạnh tốt.
Trong đơn xin nhập tịch ông ta đã khai rằng ông đã bị tòa tuyên án tù 10 năm về tội đồng lõa trong việc nhập lậu ma túy vào Úc. Tuy nhiên, sau khi điều tra Bộ đã biết được rằng ông ta đã không chịu khai báo cho Bộ biết về những vi phạm khác.
Sau khi điều tra Bộ biết được rằng ông ta đã phạm thêm các tội sau đây: (1) Vào ngày 21.02.69 ông bị kết tội “đi lang thang để hành nghề đĩ điếm” (loiter for prostitution) và bị phạt $100 hoặc “50 ngày ‘lao động nặng’ [khổ sai]” (50 days h.l. [hard labour]); (2) Vào ngày 19.05.71 ông bị kết tội “ăn cắp” (stealing) và bị phạt 4 tháng lao động nặng, cùng $200 và phải giữ gìn tánh hạnh tốt trong thời gian 3 năm; (3) Vào ngày 05.02.74, ông bị kết tội ăn cắp và bị tòa phạt $50; (4) vào ngày 27.11.81 ông bị kết tội nhập lậu ma túy vào Úc, bị tù 10 năm và phải thụ hình ít nhất là 3 năm rưỡi. “Bị trục xuất” (To be deported).
Vì nhận thấy bản án quá nhẹ nên công tố viện đã kháng án. Tòa Kháng Án duyệt xét lại và đưa ra phán quyết 13 năm tù, “thời gian phải thụ hình là 6 năm rưỡi” (non parole period 6.5 years). Theo hồ sơ thì bản án của ông ta mãn hạn vào ngày 03.05.93.


Theo “cuốn sách chỉ nam về việc Nhập Tịch Úc” (the Australian Citizenship Instruction manual), để chứng minh thỏa đáng rằng đương đơn là một người có tánh hạnh tốt theo sự quy định của Điều 13(1)(f), Bộ Trưởng đã quyết định rằng:
“Khi đương đơn đã thụ hình hơn một bản án trong thời gian 5 năm ngay trước ngày nộp đơn, thì tất cả thời gian thụ hình trong thời gian 5 năm đó phải được cộng gộp lại và được xem như là một bản án độc nhất. Nếu tổng cộng thời gian ở tù tương đương với 1 năm hoặc hơn, thì đương đơn không đủ năng cách để được cứu xét trong thời gian 2 năm sau khi thụ hình xong bản án cuối cùng. Nếu tổng cộng thời gian bị ở tù ít hơn 12 tháng, thì đương đơn có đủ tư cách để được cứu xét ngay sau khi được phóng thích nếu hội đủ các điều kiện khác”.
Dựa vào điều kiện vừa nêu, đơn xin nhập tịch của Ông Moore đãõ không được cứu xét vì 13 năm tù mãn hạn vào ngày 03.05.93. Rồi 2 năm tính từ ngày mãn hạn tù là 03.05.95. Nhưng ông ta lại nộp đơn xin nhập tịch vào ngày 01.03.95, điều đó có nghĩa là đơn của ông ta sẽ không được cứu xét, vì ông ta đã nộp đơn mà không chịu đợi sự mãn hạn của thời gian 2 năm được tính từ ngày mãn hạn bản án cuối cùng của ông.
Bộ đã căn cứ vào điều 13(11)(c)(ii) để bác đơn xin nhập tịch của ông. Điều 13(11)(c)(ii) quy định rằng: “Bộ Trưởng sẽ không cấp chứng thư nhập tịch Úc cho một người nếu: . . . (c) trong thời gian 2 năm sau khi mãn hạn tù mà cá nhân đó đã bị giam giữ trong nhà tù tại Úc với bản án tù chung thân hoặc bản án tù trong thời gian không ít hơn 12 tháng.”
Ông ta không phạm thêm bất cứ tội hình sự nào kể từ năm 1984. Tuy nhiên, những tội mà ông đã phạm phải đủ để Bộ bác đơn xin nhập tịch của ông. Đơn xin của ông đã bị từ chối dựa vào 2 lý do sau: Lý do thứ nhất là ông ta đã nộp đơn trái với sự quy định của điều 13(11)(c)(ii), điều này có nghĩa là ông ta đã nộp đơn trong vòng 2 năm kể từ lúc mãn án tù. Lý do thứ hai là ông ta không đủ tiêu chuẩn theo sự quy định của điều 13(1)(f) vì ông không phải là người có tánh hạnh tốt.
Vì thế Tòa Kháng Án Hành Chánh đã bác đơn kháng án của ông.
Thực ra ông ta đã không liên lạc với luật sư của ông, nên luật sư đã xin tòa rút lại sự đại diện tại phiên xử. Tòa bèn dựa vào hồ sơ, giấy tờ để đưa ra quyết định nói trên.
Sau đó ông ta đã liên lạc lại với luật sư của ông ta và đưa ra lý do rằng vì ông ta đi vắng nên không thể kiểm soát hộp thư trong thời gian 3 tháng. Luật sư của ông đã xin tòa cứu xét đơn xin duyệt xét lại quyết định của Tòa. Tuy nhiên, Tòa đã cho biết rằng đương sự có quyền đưa vấn đề lên “Tòa án Liêng Bang Úc” (the Federal Court of Australia) để được tái xét.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy “trong trường hợp của ông” việc Bộ bác đơn xin nhập tịch của ông dựa vào lý do được nêu trong điều 13(1)(f) là một quyết định thuộc về tiến trình thủ tục hành chánh. Hơn nữa, quyết định này là một quyết định luôn luôn được đưa ra để trút bỏ trách nhiệm hành chánh của người có thẩm quyền quyết định, và chuyển giao trách nhiệm đó cho Tòa Kháng Án Hành Chánh.
Vì thế, việc ông nộp đơn kháng án đúng theo hạn định là một quyết định đúng. Tuy nhiên, còn rất nhiều thủ tục phức tạp mà ông phải cần đến sự giúp đỡ của luật sư. Vì sắp tới đây ông phải nộp và tống đạt bằng văn bản trong đó ông phải đưa ra những luận điểm pháp lý cũng như các quyết định trước đây của tòa để hậu thuẫn cho việc chống lại quyết định bác đơn xin nhập tịch của ông. Ngoài ra luật sư của ông cũng phải cùng ông ra tòa vào ngày được ấn định để tranh cãi cho trường hợp của ông. Trường hợp của ông nếu chuẩn bị kỹ càng, chắc chắn Tòa Kháng Án Hành Chánh sẽ đưa ra quyết định cho ông nhập tịch.
Nếu ông còn thắc mắc, xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được hướng dẫn tường tận hơn. Chúc ông may mắn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.