Theo tin từ trong nước, cung đình Hànội gần đây có nhiều động thái không bình thường :
1-) Bộ chính trị từ đầu năm rất e ngại, phân vân về các cuộc họp của Ban chấp hành TW; họ đã quyết định đầu năm 2004 sẽ triệu tập họp Đại hội đảng giữa nhiệm kỳ (giữa ĐH IX và ĐH X), để kiểm điểm mọi mặt và điều chỉnh nhân sự, bổ sung bộ chính trị, cử người thay ông Phan văn Khải trong chức Thủ tướng, nhưng rồi họ lại bỏ qua, vì ý kiến khác nhau quá nhiều. Hội nghị TW 9 (tháng ½004) đã làm việc kiểm điểm sơ sài tình hình giữa 2 nhiệm kỳ, và bỏ qua không dám đưa ra lá thư ngày 3/½004 của ông Võ Nguyên Giáp gửỉ cho TW.
Đến hội nghị TW 10 (tháng 7/2004), Bộ chính trị cũng lại che dấu, không dám đưa ra TW lá thư tháng 6 của thượng tướng Nam Khánh gửi TW, mặc dầu có đến 30 người trong số gần 150 ủy viên TW có hỏi đến vụ án TC2 và T4, đều bị chủ tọa lờ đi, lảng sang chuyện khác, không trả lời vào vấn đề.
2-) Hội nghị TW 11 lẽ ra họp từ tháng 11 hay 12/2004, đã lần lữa sang tháng 1 năm 2005, họp từ 17 đến 25/1; nét khác thường là các văn kiện do các ban dự thảo (được đề cử tại cuộc họp TW 10) phác họa ra, lại chưa viết xong xuôi như những đại hội trước. Tất cả 5 văn kiện quan trọng là: Tổng kết 20 năm đổi mới; Báo cáo chính trị của TW trong khóa IX; Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Tổng kết về xây dựng đảng; Bổ sung và sửa chữa điều lệ đảng đều chỉ là đề cương chi tiết, chưa thành văn hoàn chỉnh. Lý do là gì " Để chờ có một cuộc tranh luận, có nhiều tranh cãi" sẽ viết lại khi đã thảo luận xong" có ý kiến của đa số, của thiểu số " Hay là chỉ là dự thảo vội vã, qua loa, lấy lệ, rồi sẽ đánh bóng sau, vì xưa nay các dự thảo đều được thông qua dễ dãi. Các đại hội đảng xưa nay chỉ bàn tán sôi nổi ở hành lang và được chăm chú chờ đợi khi cử đại biểu đi dự đại hội cấp trên và khi bàu cấp ủy mới. Hội họp, xôn xao nhất là chuyện ai đi, ai ở, ai ra ai vào, ai trên ai dưới, ai sẽ ở chức nào, ai thay thế ai, ai thắng, ai thua ...
3-) Hội nghị TW 11 còn có nét khác lạ nữa, chưa từng có là: đây là hội nghị TW mở rộng, mở ra rất rộng, cho thêm có đến hơn một trăm người không phải uỷ viên TW tham dự. Đó là: bí thư các tỉnh uỷ, bí thư các đảng uỷ, bí thư các ban cán sự đảng, tất cả các bộ trưởng, chủ tịch hội cựu chiến binh, các uỷ viên ban thường trực quốc hội, chủ tịch mặt trận tổ quốc (như ông Phạm Thế Duyệt không còn là uỷ viên bộ chính trị, cũng không còn là uỷ viên TW đảng)... Để làm gì " đây là biểu hiện của mở rộng dân chủ trong đảng" hay là một mưu đồ để tạo nên một "đa số ngoan ngoãn", một "đa số áp đảo", nhằm răn đe một số người bướng bỉnh, vô kỷ luật, bất phục tùng lãnh đạo " buộc họ phải coi chừng, không được chất vấn bừa bãi, không được về phe bọn chống đối cấp tiến (!), bọn cơ hội, bọn phản động" Thực tế đã chứng minh cho mưu đồ sau. Ở Hà nội, nhiều đảng viên lão thành, kỳ cựu coi đây là vi phạm nghiêm trọng điều lệ đảng, là một hành động lộng hành của Bộ chính trị coi thường ban chấp hành TW, coi thường toàn đảng, bất chấp điều lệ đảng.
Theo thông báo về kết quả hội nghị TW 11, các vấn đề gai góc vẫn bị cấm kỵ, hội nghị đã buộc phải theo ý đồ của BCT, và các vướng mắc của đông đảo đảng viên và nhân dân về TC2 và các hiệp định Việt - Trung vẫn còn nguyên vẹn.
4-) Để chuẩn bị cho cuộc hội nghị TW 11 này, cuối tháng 10/2004, một nhóm 6 uỷ viên bộ chính trị là Trần Đức Lương, Trần Đình Hoan, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Phan Diễn và Lê Hồng Anh, do Trần Đức Lương triệu tập, với sự có mặt của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, để bàn mưu tính kế, sau lưng của 8 uỷ viên bộ chính trị khác, kể cả tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Trong cuộc họp, Đỗ Mười vẫn tự coi mình là lãnh tụ tối cao của đảng (!), ra lệnh cho Phan Diễn hiện là thường trực bộ chính trị thực hiện việc khai trừ ngay ông Nguyễn Nam Khánh, như trước đây dã chỉ thị cho Phạm Thế Duyệt khai trừ ông Trần Độ ra khỏi đảng. Theo đà trên, Lê Đức Anh, cứ như còn đầy uy quyền gần 10 năm trứơc, đòi phải khai trừ tướng Võ Nguyên Giáp ra khỏi đảng "vì tội gây rối, làm mất ổn định chính trị, có như thế mới thể hiện tính kỷ luật nghiêm của đảng và sức mạnh lãnh đạo của tập thể bộ chính trị".
Ông Phan Diễn tỏ ra e ngại, "không tìm ra cớ gì để có thể khai trừ ông Nam Khánh và nhất là ông Giáp", và "xin thêm ý kiến" của nhóm lãnh đạo (!).
Còn ông Lê Hồng Anh thì không phát biểu gì suốt cuộc họp này.
5-) Gần đây, vào giữa tháng giêng, sau khi đợt phong và đề bạt 72 tướng Quân đội và Công an đã xong xuôi vào dịp lễ 22/12, đột nhiên ông Lê Hồng Anh, trước đây chưa ở ngành công an một ngày nào, được phong đại tướng công an, 4 thứ trưỏng công an đều được đề bạt thượng tướng. Phải chăng đây là một tính toán dử mồi, thưởng công trước, nhằm lôi kéo một số còn lưỡng lự, còn e ngại ngả hẳn về phe bảo thủ, cực đoan, cứng rắn"
6-) Theo tin từ Hànội, ngành Công an, trong tổng cục an ninh, rất nhiều sỹ quan rất bất bình với nhóm lãnh đạo của TC2, cho rằng TC2 đã chiếm đất, lấn sân, tranh công của tổng cục an ninh; nhiều sỹ quan an ninh tán thành chính kiến của ông Nguyễn Tài, nguyên thứ trưởng Công an, Anh hùng lực lượng an ninh, đòi xét xử công khai những tội phạm vụ án TC2, không được che dấu và bóp ngẹt vụ án này.
7-) Nhiều cán bộ cách mạng lão thành, nhiều viên tướng kỳ cựu trong quân đội cho rằng nhóm 6 vị trong bộ chính trị kết liên minh với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh rõ ràng đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, chia rẽ nghiêm trọng đảng từ cơ quan lãnh đạo cao nhất; họ đã tự phơi bày thế yếu ớt, bị cô lập, thế cực kỳ thiểu số của họ; họ táo tợn thách thức 8 uỷ viên BCT còn lại.
Trong bản báo cáo của Bộ quốc phòng do TC2 thảo ra, họ định đồng nhất TC2 với Quân đội, với toàn đảng, toàn chế độ, để lập luận rằng đáng sập TC2 là đánh sập đảng và chế độ, nhưng thật ra kẻ phá hoại quân đội, phá hoại đảng và chế độ, phá hoại cả ngành quân báo của quân đội, không phải ai khác là một nhóm tội phạm lộng hành từ hơn mười năm nay trong TC2 mà thôi. Bọn này đã bị vạch mặt chỉ tên và bị cô lập hơn bao giờ hết. Trong bộ chính trị hiện nay chỉ có một thiểu số còn ra sức bênh che chúng mà thôi.
8-) Hội nghị TW 11 không giải quyết một cách minh bạch, công bằng vụ án này nên chắc chắn vụ án còn tồn tại thành một vấn đề tranh cãi ngấm ngầm dai dẳng suốt thời kỳ đại hội đảng từ cơ sở lên đến đại hội đảng toàn quốc; trách nhiệm tất nhiên hoàn toàn thuộc về bộ chính trị, với thái độ lừng khừng, sợ sự thật, sợ công luận, buông trôi vô trách nhiệm kéo dài của họ.
9-) Gần đây, nhóm bảo thủ, cực đoan trong bộ chính trị nhiều lần nhắc đến tôi, rằng Bùi Tín móc nối với một số người chống đối ở trong nước, rằng Bùi Tín xúi dục tướng Nam Khánh và một số tướng viết bức thư ngày 17/6/2004; họ còn bày ra bài viết trên báo quân đội nhân dân điện tử ký tên giả Hồ Anh Thắng vu cáo tôi nhận tiền của nước ngoài để chống phá... Tôi tự thấy không cần trả lời hay thanh minh gì về những lời vu cáo rẻ tiền ấy. Tôi tin là đồng bào thân yêu đã hiểu tôi. Tôi chỉ nhân dịp này cám ơn bà con ta và các bạn trẻ trong nước đã quan tâm đến những bài viết của tôi về vụ án TC2, như vài nét thông tin chân thực này, không thể nào có được trên báo chí Hànội. Tôi là nhà báo, chỉ mong đưa về nước những thông tin trung thực, trình bày sự thật, với lòng quý trọng bạn đọc, với lương tâm nghề ngiệp làm sao cho xã hội ta sớm có tự do báo chí; tôi không thể đồng tình với cố tật: đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại. Tôi luôn nghĩ đồng bào thân yêu, nhất là tuổi trẻ VN yêu quí, rất xứng đáng được sống trong một xã hội thật sự dân chủ, với đủ mọi quyền tự do của công dân, như đã thành nếp sống văn minh ở đông đảo nước khác.
1-) Bộ chính trị từ đầu năm rất e ngại, phân vân về các cuộc họp của Ban chấp hành TW; họ đã quyết định đầu năm 2004 sẽ triệu tập họp Đại hội đảng giữa nhiệm kỳ (giữa ĐH IX và ĐH X), để kiểm điểm mọi mặt và điều chỉnh nhân sự, bổ sung bộ chính trị, cử người thay ông Phan văn Khải trong chức Thủ tướng, nhưng rồi họ lại bỏ qua, vì ý kiến khác nhau quá nhiều. Hội nghị TW 9 (tháng ½004) đã làm việc kiểm điểm sơ sài tình hình giữa 2 nhiệm kỳ, và bỏ qua không dám đưa ra lá thư ngày 3/½004 của ông Võ Nguyên Giáp gửỉ cho TW.
Đến hội nghị TW 10 (tháng 7/2004), Bộ chính trị cũng lại che dấu, không dám đưa ra TW lá thư tháng 6 của thượng tướng Nam Khánh gửi TW, mặc dầu có đến 30 người trong số gần 150 ủy viên TW có hỏi đến vụ án TC2 và T4, đều bị chủ tọa lờ đi, lảng sang chuyện khác, không trả lời vào vấn đề.
2-) Hội nghị TW 11 lẽ ra họp từ tháng 11 hay 12/2004, đã lần lữa sang tháng 1 năm 2005, họp từ 17 đến 25/1; nét khác thường là các văn kiện do các ban dự thảo (được đề cử tại cuộc họp TW 10) phác họa ra, lại chưa viết xong xuôi như những đại hội trước. Tất cả 5 văn kiện quan trọng là: Tổng kết 20 năm đổi mới; Báo cáo chính trị của TW trong khóa IX; Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Tổng kết về xây dựng đảng; Bổ sung và sửa chữa điều lệ đảng đều chỉ là đề cương chi tiết, chưa thành văn hoàn chỉnh. Lý do là gì " Để chờ có một cuộc tranh luận, có nhiều tranh cãi" sẽ viết lại khi đã thảo luận xong" có ý kiến của đa số, của thiểu số " Hay là chỉ là dự thảo vội vã, qua loa, lấy lệ, rồi sẽ đánh bóng sau, vì xưa nay các dự thảo đều được thông qua dễ dãi. Các đại hội đảng xưa nay chỉ bàn tán sôi nổi ở hành lang và được chăm chú chờ đợi khi cử đại biểu đi dự đại hội cấp trên và khi bàu cấp ủy mới. Hội họp, xôn xao nhất là chuyện ai đi, ai ở, ai ra ai vào, ai trên ai dưới, ai sẽ ở chức nào, ai thay thế ai, ai thắng, ai thua ...
3-) Hội nghị TW 11 còn có nét khác lạ nữa, chưa từng có là: đây là hội nghị TW mở rộng, mở ra rất rộng, cho thêm có đến hơn một trăm người không phải uỷ viên TW tham dự. Đó là: bí thư các tỉnh uỷ, bí thư các đảng uỷ, bí thư các ban cán sự đảng, tất cả các bộ trưởng, chủ tịch hội cựu chiến binh, các uỷ viên ban thường trực quốc hội, chủ tịch mặt trận tổ quốc (như ông Phạm Thế Duyệt không còn là uỷ viên bộ chính trị, cũng không còn là uỷ viên TW đảng)... Để làm gì " đây là biểu hiện của mở rộng dân chủ trong đảng" hay là một mưu đồ để tạo nên một "đa số ngoan ngoãn", một "đa số áp đảo", nhằm răn đe một số người bướng bỉnh, vô kỷ luật, bất phục tùng lãnh đạo " buộc họ phải coi chừng, không được chất vấn bừa bãi, không được về phe bọn chống đối cấp tiến (!), bọn cơ hội, bọn phản động" Thực tế đã chứng minh cho mưu đồ sau. Ở Hà nội, nhiều đảng viên lão thành, kỳ cựu coi đây là vi phạm nghiêm trọng điều lệ đảng, là một hành động lộng hành của Bộ chính trị coi thường ban chấp hành TW, coi thường toàn đảng, bất chấp điều lệ đảng.
Theo thông báo về kết quả hội nghị TW 11, các vấn đề gai góc vẫn bị cấm kỵ, hội nghị đã buộc phải theo ý đồ của BCT, và các vướng mắc của đông đảo đảng viên và nhân dân về TC2 và các hiệp định Việt - Trung vẫn còn nguyên vẹn.
4-) Để chuẩn bị cho cuộc hội nghị TW 11 này, cuối tháng 10/2004, một nhóm 6 uỷ viên bộ chính trị là Trần Đức Lương, Trần Đình Hoan, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Phan Diễn và Lê Hồng Anh, do Trần Đức Lương triệu tập, với sự có mặt của Đỗ Mười và Lê Đức Anh, để bàn mưu tính kế, sau lưng của 8 uỷ viên bộ chính trị khác, kể cả tổng bí thư Nông Đức Mạnh.
Trong cuộc họp, Đỗ Mười vẫn tự coi mình là lãnh tụ tối cao của đảng (!), ra lệnh cho Phan Diễn hiện là thường trực bộ chính trị thực hiện việc khai trừ ngay ông Nguyễn Nam Khánh, như trước đây dã chỉ thị cho Phạm Thế Duyệt khai trừ ông Trần Độ ra khỏi đảng. Theo đà trên, Lê Đức Anh, cứ như còn đầy uy quyền gần 10 năm trứơc, đòi phải khai trừ tướng Võ Nguyên Giáp ra khỏi đảng "vì tội gây rối, làm mất ổn định chính trị, có như thế mới thể hiện tính kỷ luật nghiêm của đảng và sức mạnh lãnh đạo của tập thể bộ chính trị".
Ông Phan Diễn tỏ ra e ngại, "không tìm ra cớ gì để có thể khai trừ ông Nam Khánh và nhất là ông Giáp", và "xin thêm ý kiến" của nhóm lãnh đạo (!).
Còn ông Lê Hồng Anh thì không phát biểu gì suốt cuộc họp này.
5-) Gần đây, vào giữa tháng giêng, sau khi đợt phong và đề bạt 72 tướng Quân đội và Công an đã xong xuôi vào dịp lễ 22/12, đột nhiên ông Lê Hồng Anh, trước đây chưa ở ngành công an một ngày nào, được phong đại tướng công an, 4 thứ trưỏng công an đều được đề bạt thượng tướng. Phải chăng đây là một tính toán dử mồi, thưởng công trước, nhằm lôi kéo một số còn lưỡng lự, còn e ngại ngả hẳn về phe bảo thủ, cực đoan, cứng rắn"
6-) Theo tin từ Hànội, ngành Công an, trong tổng cục an ninh, rất nhiều sỹ quan rất bất bình với nhóm lãnh đạo của TC2, cho rằng TC2 đã chiếm đất, lấn sân, tranh công của tổng cục an ninh; nhiều sỹ quan an ninh tán thành chính kiến của ông Nguyễn Tài, nguyên thứ trưởng Công an, Anh hùng lực lượng an ninh, đòi xét xử công khai những tội phạm vụ án TC2, không được che dấu và bóp ngẹt vụ án này.
7-) Nhiều cán bộ cách mạng lão thành, nhiều viên tướng kỳ cựu trong quân đội cho rằng nhóm 6 vị trong bộ chính trị kết liên minh với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh rõ ràng đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, chia rẽ nghiêm trọng đảng từ cơ quan lãnh đạo cao nhất; họ đã tự phơi bày thế yếu ớt, bị cô lập, thế cực kỳ thiểu số của họ; họ táo tợn thách thức 8 uỷ viên BCT còn lại.
Trong bản báo cáo của Bộ quốc phòng do TC2 thảo ra, họ định đồng nhất TC2 với Quân đội, với toàn đảng, toàn chế độ, để lập luận rằng đáng sập TC2 là đánh sập đảng và chế độ, nhưng thật ra kẻ phá hoại quân đội, phá hoại đảng và chế độ, phá hoại cả ngành quân báo của quân đội, không phải ai khác là một nhóm tội phạm lộng hành từ hơn mười năm nay trong TC2 mà thôi. Bọn này đã bị vạch mặt chỉ tên và bị cô lập hơn bao giờ hết. Trong bộ chính trị hiện nay chỉ có một thiểu số còn ra sức bênh che chúng mà thôi.
8-) Hội nghị TW 11 không giải quyết một cách minh bạch, công bằng vụ án này nên chắc chắn vụ án còn tồn tại thành một vấn đề tranh cãi ngấm ngầm dai dẳng suốt thời kỳ đại hội đảng từ cơ sở lên đến đại hội đảng toàn quốc; trách nhiệm tất nhiên hoàn toàn thuộc về bộ chính trị, với thái độ lừng khừng, sợ sự thật, sợ công luận, buông trôi vô trách nhiệm kéo dài của họ.
9-) Gần đây, nhóm bảo thủ, cực đoan trong bộ chính trị nhiều lần nhắc đến tôi, rằng Bùi Tín móc nối với một số người chống đối ở trong nước, rằng Bùi Tín xúi dục tướng Nam Khánh và một số tướng viết bức thư ngày 17/6/2004; họ còn bày ra bài viết trên báo quân đội nhân dân điện tử ký tên giả Hồ Anh Thắng vu cáo tôi nhận tiền của nước ngoài để chống phá... Tôi tự thấy không cần trả lời hay thanh minh gì về những lời vu cáo rẻ tiền ấy. Tôi tin là đồng bào thân yêu đã hiểu tôi. Tôi chỉ nhân dịp này cám ơn bà con ta và các bạn trẻ trong nước đã quan tâm đến những bài viết của tôi về vụ án TC2, như vài nét thông tin chân thực này, không thể nào có được trên báo chí Hànội. Tôi là nhà báo, chỉ mong đưa về nước những thông tin trung thực, trình bày sự thật, với lòng quý trọng bạn đọc, với lương tâm nghề ngiệp làm sao cho xã hội ta sớm có tự do báo chí; tôi không thể đồng tình với cố tật: đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại. Tôi luôn nghĩ đồng bào thân yêu, nhất là tuổi trẻ VN yêu quí, rất xứng đáng được sống trong một xã hội thật sự dân chủ, với đủ mọi quyền tự do của công dân, như đã thành nếp sống văn minh ở đông đảo nước khác.
Bùi Tín Paris.
24/½005.
Gửi ý kiến của bạn