Hôm nay,  

Tản Mạn Với "bố" Phạm Duy

08/11/200400:00:00(Xem: 5388)
Bích Liên, (bên trái) Khánh Ly, Mai Hương, Phạm Duy và Nguyễn Thành Vân trong đêm nhạc Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn do Viet Arts Association tổ chức tại San Jose, tháng 10, 1998 (ảnh Bùi Văn Phú)

LTS. Nhạc sĩ Phạm Duy sinh ngày ngày 05 tháng 10 năm 1921 (Tân Dậu). Cuối tuần qua có buổi họp mặt tại phòng sinh hoạt Lê Đình Điểu, trụ sở báo Người Việt, mừng sinh nhật thứ 84 của người nhạc sĩ lớn. Nhân dịp này, xin mời đọc một tác giả thuộc thế hệ trẻ hơn viết về “bố” Phạm Duy.

Những năm cuối ở bậc trung học tôi có người bạn thân sống trong một con hẻm ở gần cư xá Chu Mạnh Trinh, ngã tư Phú Nhuận, Sài-gòn nên sau những giờ học chúng tôi hay kéo nhau về khu cư xá ăn bò viên và chè sâm bổ lượng.
Nhiều buổi chiều ngồi ăn uống chúng tôi thấy nhạc sĩ Phạm Duy thả bộ ra đầu ngõ mua báo, có khi thấy ca sĩ Duy Quang lái Mẹc-sơ-đéc đi ra, có khi lại thấy Thái Hiền đạp xe đi đi, về về. Lần đầu tiên thấy người nhạc sĩ với dáng đi gật gù, anh bạn hất đầu và nói với chúng tôi: "Bố Phạm Duy đấy." Từ đó trong anh em chúng tôi mỗi khi nhắc đến Phạm Duy thì thường gọi là "Bố" luôn.
Những ngày tháng đó ngoài việc học, chúng tôi còn hay ôm đàn ghi-ta, nghêu ngao hát Nghìn Trùng Xa Cách, Gia Tài Của Mẹ, Trả Lại Em Yêu, Huế Sài-gòn Hà Nội, Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài, Người Già và Em Bé, Để Lại Cho Em, Tôi Sẽ Đi Thăm, Thà Như Giọt Mưa, Lời Chào Bình Yên, Kỷ Vật Cho Em, Còn Chút Gì Để Nhớ, Ca Dao Mẹ. Những bài hát, lời ca của hai nhạc sĩ - Phạm Duy và Trịnh Công Sơn - mà chúng tôi yêu thích nhất. Đó là những nỗi buồn ray rứt của tình yêu, nỗi đau của thân phận quê hương, và cũng là những ước mơ hy vọng của thanh niên lớn lên trong một đất nước phân chia, mịt mù khói lửa chiến tranh. Những lời nhạc chúng tôi thuộc phần nhiều nghe được từ những quán cà phê, ít khi có được bài nhạc trong tay.
Biến cố 30 tháng 4, 1975 đưa tôi xa rời Việt Nam, chuyên chở trong tim tình cảm quê hương thương nhớ qua những dòng nhạc của Bố và cứ lo sợ những lời ca, tiếng nhạc đó sẽ bị mất đi mãi mãi. Lúc biết Bố ở Florida, tôi gửi thư mua băng nhạc, ấn phẩm của Bố. Tiếng hát giờ chỉ còn Thái Hằng là mẹ, Thái Hiền là con vì định mệnh đã an bài Thái Thanh cùng những người con trai của Bố phải ở lại bên kia bờ đại dương. Tập nhạc thì do Bố viết tay, nét chữ bay bướm, lả lướt - bây giờ nét chữ của Bố cũng vẫn thế - có nhiều bài in rời trên những tờ giấy cứng màu vàng, chữ nâu.
Tôi thấy lại Bố trên đất Mỹ khi ban nhạc Gia Đình Phạm Duy - giờ chỉ có Bố ôm đàn cho ba mẹ con Thái Hằng, Thái Hiền và Thái Thảo hát, vì những người con trai của Bố đều kẹt lại - kéo nhau đến vùng Vịnh San Francisco "hát xẩm," tiếng Bố đặt cho những buổi đi trình diễn trong cộng đồng người Việt thời đó, phần tư thế kỷ trước.
Khi Ngục Ca ra đời thì Bố đã về miền Nam Cali nắng ấm. Thơ Ngục Sĩ vừa phổ biến ở Mỹ vào đầu năm 1980, không lâu sau Bố có ngay mười bài Ngục Ca. Sinh viên U.C. Berkeley tiên phong tổ chức những Đêm Nghe Tiếng Vọng Từ Đáy Vực, tôi liên lạc và được Bố gửi ngay cho băng và tập nhạc. Nhạc của Bố dễ hát và sinh viên chúng tôi được ca sĩ Thu Hà - tức bác sĩ Nguyệt - của ban Tam Ca Đông Phương ngày trước giúp, nên các bạn chỉ tập dượt vài ba lần là lên sân khấu trình diễn. Tôi thích nhất Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ, Chuyện Vĩ Đại Bi Ai, Sẽ Có Một Ngày.
Theo năm tháng, tôi hân hoan đón nhận những sáng tác, cải tiến theo thời đại trong nét nhạc của Bố: Bầy Chim Bỏ Xứ, Rong Ca, Thiền Ca, Thiền Ca Hàn Mặc Tử. Những ca khúc trong hai trường ca Mẹ Việt Nam, Con Đường Cái Quan nay được hòa âm và phổ biến dưới dạng CD giúp sinh viên làm văn nghệ dễ dàng hơn, luôn cuốn hơn. Tôi cũng thường nghe lại Đạo Ca (Phạm Duy phổ thơ Phạm Thiên Thư) như là những lời nhắc nhở về triết lý nhân sinh trong cuộc sống.
Cuối năm ta, tôi được tản mạn qua e-mail với Bố.

Bùi Văn Phú (BVP): Năm nay Bố bao nhiêu tuổi rồi" Bố cầm tinh con gì"
Phạm Duy (PD): 82 years young. Tuổi con gà, Tân Dậu.
H: Nghĩ lại từ ngày Bố có trí nhớ, hình ảnh đầu tiên nào về nước Việt Nam còn in sâu trong tâm tưởng của Bố"
PD: Việt Nam thanh bình, thành phố lặng lẽ, đồng quê êm đềm, người dân ở mọi nơi hiền hậu, ai cũng tốt bụng hết.
H: "Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời người ơi..." Trong khung cảnh, tâm trạng nào Bố đã sáng tác bản Tình Ca bất hủ đó"
PD: Năm 1953. Từ kháng chiến trở về Hà Nội, rồi vào Nam đã thấy mình độc lập rồi, cần đưa ra một bài hát tình tự quê hương trong đó bản sắc quốc gia nổi bật: người Việt Nam khác người Tàu, người Tây ở tiếng nói, cảnh vật và con người. Bản nhạc này cũng là tuyên ngôn đầu tiên của tôi. Nghĩa là âm nhạc của tôi phải "khóc cười theo mệnh nước," phải khởi hành từ dân ca, phải yêu quý non sông Việt Nam, phải xót thương người quê, mẹ quê, bé quê. Đó là bài thứ hai trong loại TÌNH Tự QUÊ HƯƠNG, TÌNH Tự DÂN TộC. Những bài khác, trước sau là Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê, Vợ Chồng Quê, qua những dân ca, trường ca, tổ khúc rồi liên tục cho tới Minh Họa Kiều bây giờ.
H: Tình Ca và Việt Nam, Việt Nam có liên hệ gì với nhau"
PD: Chỉ là một loại: tình ca quê hương, tình tự dân tộc. Không có hai thứ "tình" đó thì sẽ cứ loạn ly hoài hoài.
H: Trong nhạc của Bố, nhiều khi là sông và nước. Đặc biệt bài Thuyền Viễn Xứ đã là câu hát trên môi đưa Phú rời xa Việt Nam bằng tàu, mắt nhòa lệ vì không biết trôi dạt đi đâu. Nguồn cảm hứng nào đưa Bố đến Thuyền Viễn Xứ"
PD: Thuyền Viễn Xứ ra đời đúng lúc một triệu người - trong đó có gia đình tôi - di cư vào Nam, ai cũng nhớ miền Bắc với con sông Đà Giang, với hình ảnh con thuyền, hình ảnh bà mẹ già là những gì tiêu biểu. Lúc đó nhổ neo từ Bắc vào Nam đã là viễn xứ rồi. Bây giờ mới thực là viễn xứ xa xôi, cánh máy bay hay thuyền buồm đưa ta ra đi "nghìn trùng xa cách!"
H: So sánh bài hát trên với 54 Cha Bỏ Quê, 75 Con Bỏ Nước thì sao"
[Nhạc sĩ Phạm Duy xin không trả lời câu hỏi này.]
H: Nhiều bài hát khác của Bố cũng có sông, nước, như Viễn Du, Chiều Về Trên Sông. Bài thứ hai Bố muốn nói đến con sông nào"
PD: Cửu Long Giang.
H: Đây cũng là một bài trong Trường Ca Mẹ Việt Nam"
PD: Truờng Ca Mẹ Việt Nam là một nhạc phẩm có tính cách tượng trưng (symbolic). Những con sông tượng trưng cho các con của Mẹ. Thành ra không cần mang tên là Cửu Long Giang, Hồng Hà, Sông Lô hay sông gì gì đó.
H: Gần một phần ba đời, Bố sống ở nước ngoài và có nhiều sáng tác, trường ca cũng như đoản khúc. Những loại ca khúc nào phản ánh đúng một Phạm Duy sống lưu vong nhất"
PD: Chúng ta phải theo thuyền viễn xứ ra đi, thấm thoát đã gần 30 năm rồi. Trong thời gian này, có người không chịu thay đổi gì hết, có người không chịu để tâm hồn bị đóng khung một chỗ. Nhạc Phạm Duy trong 30 năm nay, nghiên cứu kỹ sẽ là nhạc đa dạng, loại nhạc này, loại nhạc nọ đều phản ánh trung thực cuộc đời trước mặt.


H: Giờ xin hỏi Bố về những ca khúc gắn liền với chiến tranh như Nhớ Người Thương Binh, Tưởng Như Còn Người Yêu và Kỷ Vật Cho Em. Ca khúc sau có người cho là mang tính phản chiến. Nếu so sánh với Trịnh Công Sơn trong Cúi Xuống Thật Gần hay Hát Trên Những Xác Người thì cũng chỉ là diễn tả những đau thương có thực, phải không Bố"
PD: Nghệ sĩ thuộc loại giết người thì mới có những bài mang tinh thần "hiếu" chiến. Nghệ sĩ chân chính là phải biết "khóc" theo hệ lụy của cuộc đời, là chiến tranh và ly loạn.
H: "Mang giầy vớ tốt, mang khăn áo lành. Tôi chào đất nước tôi nay thái bình..." là lời của một Bình Ca. Lúc Bố viết bài này, đầu thập niên 70, thì nước mình có hòa bình không"
PD: Trong loại Bình Ca này còn có thêm bài Dường Như Là Hòa Bình.
H: Dân Việt mình có bao giờ được hưởng hòa bình chưa"
PD: Dường như là hòa bình mà thôi.
H: Còn bài Chúa Hòa Bình có lời rằng: Nếu có ai giận dữ, nếu có ai bất hòa, sẽ tát tôi một cái, tôi chìa luôn ngay má kia... Bố muốn nhắn gửi gì qua bài hát đó và tại sao Bố lại đề tặng cho linh mục Đinh Bình Định"
PD: Mười bài Bình Ca, trong đó có những bài Chúa Hòa Bình, Sống Sót Trở Về, Lời Chào Bình Yên v.v... không nói tới hòa bình trên đất nước, mà nói tới hòa bình trong lòng người. Hòa bình trong lòng người mới là quan trọng. Lòng người Việt Nam than ôi, bị chiến tranh và chính trị lũng loạn. Tôi tặng bài Chúa Hòa Bình cho linh mục Đinh Bình Định vì ông rất yêu nhạc Phạm Duy. Ông mời tôi và các con tôi tới thánh đường để hát bài đó. Lúc đó ông cũng còn là người đấu tranh chống tham nhũng nữa.
H: Trong những chuyến đi Việt Nam, Phú được nghe lại Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc vang vang trong một xóm dân lao động; nghe Nha Trang Ngày Về, Còn Chút Gì Để Nhớ ở một thành phố biển. Nhạc của Bố có được phổ biến trong nước không" Hay đây chỉ là những sự tình cờ"
PD: Người dân ở vùng biển đó đã theo đúng khẩu hiệu của tôi ngày xưa: đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cầy. Bây giờ họ chủ trương: thuyền ta ta cứ bơi, biển ta ta cứ câu, nhạc hay ta cứ hát, bất chấp bài hát bị cấm hát hay được phép hát. Phép vua thua lệ làng mà.
H: Đạo Ca, như Một Cành Mai, Suối Mây Hồng, Quán Thế Âm, Đại Nguyện ra đời trong hoàn cảnh nào"
PD: Tạm buông rơi nhạc tình ca, nhạc xã hội năm 1972, tôi làm bạn với nhà thơ Phạm Thiên Thư để soạn nhạc tâm linh. Đạo Ca đã được nối tiếp bằng Rong Ca, Thiền Ca, Hàn Mặc Tử Ca... vì tôi đã thấy trước việc người Việt Nam sẽ có ngày trở về với mình, tức là về với tâm linh đó, sau khi cái "tâm" đã hết bị giao động. Hình như bây giờ là lúc "gạn đục khơi trong," tâm hồn lắng xuống, con tim đập đều, nhiều người trong chúng ta đang lắng tai nghe nhạc tâm linh. Ham đi chùa, ham tới giáo đường tức là đã nghe được tiếng mõ chuông. Tiếng mõ chuông, tiếng niệm kinh, tiếng cầu kinh cũng là một thứ nhạc tâm linh đấy.
H: Trường ca Con Đường Cái Quan Bố viết từ cả nửa thế kỷ trước. Gần đây Bố có đi lại con đường xuyên Việt đó chứ" Cảm giác của Bố so với gần nửa thế kỷ trước"
PD: Yes. Tôi đã có hạnh phúc to lớn là được đi lại suốt dọc Con Đường Cái Quan, chụp ảnh, quay phim những nơi tôi soạn ra những bài hát đầy kỷ niệm. Ví dụ tới Lạng Sơn, ngồi trên cột Cây Số 1, nghe reo lên trong lòng bài Nương Chiều, hay bài Bông Lau Rừng Xanh Pha Mầu. Vào miền Trung, tìm về tận nhà của Bà Mẹ Gio Linh. Rảo Chơi trên bãi biển Nha Trang hay trên đồi hồng Đà Lạt để tìm hình bóng xưa, ôi biết bao là thương mến. Tôi thật là có phúc.
H: Quê hương mình giờ đây có còn gì gợi hứng cho Bố sáng tác"
PD: Soạn nhạc cho quê hương, cho dân tộc, tôi chỉ còn mắc nợ với ông Nguyễn Du và cô Thuý Kiều 45 phút âm nhạc - mà tôi đang hoàn tất - nữa thôi. Xong rồi thì tôi giải nghệ hoàn toàn.
H: Nhạc Phạm Duy với giọng hát Thái Thanh đã được nhiều người mê thích, sau năm 1975 thì ca sĩ nào thể hiện nhạc của Bố hay nhất"
PD: Nhiều ca sĩ có giọng tốt, nhưng đa số không hiểu linh hồn của bài ca. Thái Thanh rất intelligent, hiểu ngay và đem linh hồn bài ca vào giọng hát Nàng.
H: Bố có nhận xét gì về những nhạc sĩ trong nước thời nay như Dương Thụ, Bảo Chấn, Thanh Tùng"
PD: Tôi không biết một tí gì về các nhạc sĩ đó cả nên không có ý kiến.
H: Còn về các ca sĩ như Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Lam Trường thì sao"
PD: Tôi chưa được nghe các ca sĩ đó hát. Chỉ quen biết Hồng Nhung, ăn cơm với nhau vài lần và nghe vài dĩa hát của nàng. Nàng hát rất khoẻ, hát nhạc Trịnh Công Sơn rất hay, hình như chưa hát nhạc Phạm Duy, thành ra chưa biết ra sao.
H: Ca sĩ hải ngoại, ai có triển vọng sẽ mãi mãi đi vào lòng người Việt hải ngoại"
PD: Tôi ít đi nghe nhạc ở bên Mỹ nên không có ý kiến.
H: Bố đã sống rất thọ, 82 rồi còn gì. Nhìn lại đời mình, Bố có gì hài lòng, cũng như thất vọng"
PD: Hài lòng vì được làm những gì mình muốn trong suốt một đời, nhờ được may mắn có tự do sáng tác. Không có tính tham lam nên chẳng bao giờ thất vọng cả.
H: Còn nhìn về đất nước, con người Việt Nam trong suốt cuộc đời Bố, Bố có nhận xét gì"
PD: Tôi đã về hưu và có lời tạ ơn tất cả dĩ vãng, trong đó có đất nước và con người, bằng chương 29 trong hồi ký tập 4..., như thế còn cần nhận xét gì nữa.
H: Giờ hỏi Bố chuyện ngày xuân. "Xuân trong tôi, đã khơi trong một đêm vui..." bản Xuân Ca đó bố viết năm nào"
PD: Tôi có nhiều bài hát về mùa xuân: Xuân Ca, Hoa Xuân, Xuân Thì, Xuân Nồng, Trên Đồi Xuân, Thiền Ca Xuân, Mùa Xuân Yêu Em, Mừng Xuân. Bài Xuân Ca soạn vào khoảng năm 1953 nói rằng: mùa xuân đầu tiên của ta khởi sự vào đêm động phòng của cha và mẹ, sét nổ của cha làm chói chan lòng mẹ, làm thành mùa xuân của ta!
H: Năm "con Dê" sắp đến Bố có những chương trình sinh hoạt gì"
PD: Vài ba nơi đã mời tôi và các con đi trình bày chương trình Phạm Duy Một Đời Nhìn Lại. Có nơi mời trình diễn Minh Họa Kiều. Dĩa nhạc Ái Vân hát dân ca Phạm Duy đang trong giai đoạn "final mixing."
H: Còn hồi ký của Bố, bao giờ tập kế tiếp sẽ xuất bản"
PD: Hồi Ký tập 4 đã hoàn tất từ năm 2000. Tôi không ấn hành vì in sách là lạc hậu rồi. Tôi làm thành một thứ E-book và cho lên NET. Mời độc giả đọc "free" vì tôi đủ sống rồi, không cần tới tiền bản quyền nữa. Mời dzô website: www.phamduymusic.com
BVP: Cuối cùng, cám ơn Bố đã để lại cho đời quê hương, tình người với biết bao là yêu thương, trìu mến.
Bài tản mạn này thực hiện vào đầu năm 2003. Gần đây nhạc sĩ Phạm Duy đã cho phổ biến trong giới thân hữu hai CD: một CD có tựa là "Hương Ca," gồm 14 sáng tác mới nhất viết về quê hương và những ca khúc phổ thơ của một số thi sĩ trong và ngoài nước, và CD "Minh Họa Kiều 3" là chủ đề mà nhạc sĩ đã liên tục sáng tác trong vài năm qua. Dù tuổi đời đã 84, hai tác phẩm trên cho thấy sức sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy cũng vẫn còn rất phong phú./.

BÙI VĂN PHÚ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.