Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Quyết Nghị về Việt Nam đã được Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế đồng thanh biểu quyết chấp thuận trong phiên họp khoáng đại sáng ngày thứ sáu 10 tháng 9 năm 2004 tại Tromso, nước Na Uy. Nhân dịp này, chúng tôi trích đăng lại lời trình bày trước đây của nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt khi được hỏi "Vì sao phải có Quyết Nghị về Việt Nam"" :
" Phải có Quyết Nghị về Việt Nam để vạch trần trước công luận bản chất bất lương, vô liêm sĩ và cực kỳ hung hiểm của chế độ Việt cộng khi mà tình hình Nhân quyền càng tồi tệ và trầm trọng. Nhiều cuộc bắt giam độc đoán, nhiều hành động trấn áp vô nhân đạo, nhiều vụ án bất công, phi pháp, rập khuôn theo công lý thời bạo chúa sô viết Staline, nhằm khủng bố, bao vây, cô lập và đày đọa những người có can đảm đòi hỏi thực thi những quyền tự do dân chủ và bài trừ quốc nạn tham nhũng.
Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì không thể ngồi yên trước tình cảnh nguy bách của nhiều tù nhân bị sa sút sức khoẻ hoặc lâm bệnh nặng mà không được điều trị khẩn cấp. Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì không thể câm nín sau khi nghe thấy tiếng kêu thương, cảm nhận được nỗi đau buồn, niềm phẫn uất của nhiều gia đình Việt Nam đang gánh vác một phần đại khổ nạn của dân tộc. Có những người mà chúng ta không bao giờ quên tên, như bà Nguyễn Thị Kim Chung, người mẹ của tù nhân Lê Chí Quang; bà Trần Thị Quyết, người mẹ của tù nhân Nguyễn Khắc Toàn; bà Vũ Thúy Hà, các cháu Phạm Vũ Anh Quân và Phạm Vũ Duy Tân, người vợ và hai đứa con của tù nhân Phạm Hồng Sơn; bà Bùi Thị Kim Ngân, các cháu Nguyễn Vũ Thanh Hà và Nguyễn Vũ Thuần Linh, người vợ và hai đứa con của tù nhân Nguyễn Vũ Bình; bà Đỗ Thị Cư, người vợ của tù nhân Phạm Quế Dương; bà Dương Kim Hợp, người vợ của tù nhân Trần Dũng Tiến; bà Nguyễn Thị May, người vợ của tù nhân Nguyễn Đình Huy; bà Dương Thị Tâm Vấn, người vợ của tù nhân Nguyễn Đan Quế, v.v. (...).
Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì hội viên Văn Bút Quốc tế từ khắp năm châu mong muốn lên tiếng bênh vực những nạn nhân mà họ chưa gặp mặt một lần nào. Họ chỉ biết đó là những văn thi hữu, nhà báo, học giả, trí thức Việt Nam chân chính, mà tiếng nói bị tước đoạt, ngòi bút bị bẻ gãy, tác phẩm bị tịch thu, thân thể bị nhục hình, mạng sống bị đe dọa và thân nhân liên lụy bị sách nhiễu, hăm he, trừng phạt (...)".
Sau đây là bản Việt ngữ của Nguyên Hoàng Bảo Việt (thành viên Ủy ban Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù/Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại và hội viên Trung tâm Âu châu/Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại). Tiếp theo là nguyên văn Pháp ngữ. Bản Anh ngữ sẽ được phổ biến trong Bản Tin kỳ tới.
Được biết phái đoàn Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tại Đại Hội đã tích cực ủng hộ Quyết Nghị này.
Toàn Văn Quyết Nghị về Việt Nam
Quyết Nghị về Việt Nam do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại (Centre PEN Suisse Romand) soạn thảo và đề nghị, với sự tán trợ của các Trung tâm Văn Bút Algérie, Anh, Ba Lan, Bỉ Pháp thoại, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Hung Gia Lợi, Melbourne, Mễ Tây Cơ, Nga, Phần Lan, San Miguel de Allende, Slovaquie, Thụy Sĩ Đức thoại, Thụy Sĩ Ý thoại và Réto-Romanche, Trung Hoa Độc Lập, Việt Nam Hải Ngoại và Ý Đại Lợi.
Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế, họp Đại Hội Thế Giới kỳ thứ 70 tại Tromso, Na Uy, từ ngày 6 đến 12 tháng 9 năm 2004,
Nhắc lại rằng trong tháng hai và tháng ba năm 2004, Văn Bút Quốc Tế đã mở một cuộc vận động toàn cầu - Focus on Vietnam/Regards sur le Vietnam - soi xét để cảnh báo công luận về sự tăng cường đàn áp quyền tự do phát biểu của nhà cầm quyền Việt Nam. Tháng 11 năm 2003, một Quyết Nghị về Việt Nam đã được thông qua tại Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 69 ở Mễ Tây Cơ. Quyết Nghị đòi phóng thích tất cả những người bị bắt giam độc đoán hoặc bị kết án tù trái với tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là những người cầm bút, vì lẽ chế độ Hà nội vi phạm quyền của các nạn nhân được tự do bày tỏ quan điểm, viết văn, sưu tầm, tiếp nhận, lưu hành và phổ biến tin tức trên mạng lưới Internet, cũng như quyền được tự do thành lập và gia nhập hội đoàn;
Phàn nàn rằng cho đến nay, không thấy có chút cải thiện nào trong tình cảnh của các nhà văn, nhà báo và trí thức bị giam cầm hoặc ngược đãi ở Việt Nam. Số phận của họ thật đáng lo ngại vô cùng. Chỉ có nhà báo Trần Dũng Tiến, giáo sư Trần Khuê, nhà viết quân sử Phạm Quế Dương và ba người cháu của linh mục Nguyễn Văn Lý coi như được phóng thích sau khi ở mãn hạn tù. Ngoài ra, bị bắt hồi tháng 2 năm 2002 và bị phạt 4 năm tù và 3 năm quản chế hồi tháng 11 năm 2002, nhà luật học Lê Chí Quang cũng chỉ được phóng thích vào tháng 6 năm 2004 vì lý do sức khoẻ. Thật vậy, ông Lê Chí Quang đau thận nặng và bị viêm loét ở bộ phận tiêu hóa, có thể rủi ro chết trong tù;
Bày tỏ sự kinh ngạc và công phẫn trước bản án tù áp đặt bất công đối với nhà báo Nguyễn Vũ Bình (35 tuổi), nguyên cộng sự viên tạp chí chính thức của đảng cộng sản trong 10 năm và thành viên của Hội Công dân chống Tham nhũng (bị cấm hoạt động). Tháng 9 năm 2002, ông Nguyễn Vũ Bình bị bắt rồi mãi đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 thì mới bị xử 7 năm tù và 3 năm quản chế. Ông bị trừng phạt vì đã phổ biến trên mạng lưới Internet những bài ông viết không được kiểm duyệt, trong đó có bản điều trần về những sự vi phạm nhân quyền. Ngày 5 tháng 5 năm 2004, sau khi tòa phúc thẩm giữ y bản án sơ thẩm, ông Nguyễn Vũ Bình đã tuyệt thực trong hai tuần lễ để đòi đưa vụ án lên tòa tối cao và đòi vợ ông phải được quyền thăm nom ông. Cũng bày tỏ sự kinh ngạc và công phẫn tương tự trước bản án tù của nhà báo Nguyễn Đan Quế (62 tuổi). Sự bắt giữ bác sĩ Nguyễn Đan Quế đầu tháng 3 năm 2003 có dính dấp đến một thông cáo do ông phổ biến để tố cáo rằng tại nước ông không hề có quyền tự do phát biểu và tự do báo chí. Ngày 29 tháng 7 năm 2004, sau một phiên tòa thiếu công bằng, ông đã bị kết án 30 tháng tù. Bị bệnh viêm loét nặng ở bộ phận tiêu hóa, sạn thận và áp huyết cao, bác sĩ Nguyễn Đan Quế từng trải qua 18 năm tù giữa những năm 1978 và 1998 vì những ý kiến mà ông đã phát biểu;
Tuyên bố ưu tư và lo ngại sâu xa về tình trạng sức khoẻ giảm sút tệ hại của nhiều tù nhân, gồm có nhứt là những người lớn tuổi. Họ đau yếu vì các chứng bệnh gây ra bởi những điều kiện lao lung khắc nghiệt, thiếu dinh dưỡng, ốm đau không được chữa trị, chế độ tù khổ sai và nhiều năm dài bị giam cầm hoặc lưu đày. Trong số những nạn nhân đó có nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang (87 tuổi) và Thích Quảng Độ (76 tuổi), nhà báo kiêm tiểu thuyết gia Nguyễn Đình Huy (72 tuổi) và nhà trí thức Trần Văn Lương (64 tuổi);
Lên án sự tiếp tục giam nhốt ông Trần Văn Lương và linh mục Nguyễn Văn Lý, cũng như tiếp tục quản thúc hòa thượng Thích Huyền Quang tại tu viện, mặc dù có các Quan Điểm của Ban Hành Động Liên Hiệp Quốc chống Giam Cầm Độc Đoán. Cần nhắc lại, cơ quan đặc nhiệm thuộc Ủy Hội Nhân Quyền đã tuyên cáo rằng sự tước đoạt quyền tự do của ông Trần Văn Lương, linh mục Nguyễn Văn Lý và hoà thượng Thích Huyền Quang là độc đoán vì biện pháp đó vi phạm Điều 19 của Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới về Nhân Quyền và Điều 19 của Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị. (ông Trần Văn Lương/bản Quan Điểm số 13/1999/Việt Nam, linh mục Nguyễn Văn Lý/bản Quan Điểm số 20/2003/Việt Nam và hòa thượng Thích Huyền Quang/bản Quan Điểm số 4/2001/Việt Nam);
Đòi nhà cầm quyền Việt Nam :
1. phóng thích tức khắc và vô điều kiện tất cả những nhà văn, nhà báo và trí thức còn bị giam cầm hoặc quản chế chỉ vì đã hành sử ôn hòa quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến của họ. Trong số những tù nhân đó có các ông Nguyễn Đình Huy và Trần Văn Lương, linh mục Nguyễn Văn Lý, nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, các ông Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Đan Quế, thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và ông Nguyễn Xuân Tụ;
2. chấm dứt tất cả những biện pháp sách nhiễu, hăm he và dọa nạt đối với thân nhân của họ;
3. bảo đảm cho tù nhân quyền được gia đình thăm nom, được săn sóc và cung cấp thuốc men đầy đủ khi đau ốm. Và ở vào trường hợp khẩn cấp, quyền được điều trị tại một y viện chuyên khoa trong lúc chờ được phóng thích;
4. tôn trọng các nguyên tắc và quyền căn bản được nêu rõ trong Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới về Nhân Quyền, gồm cả Điều 19 bảo đảm quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến.
Quyết Nghị về Việt Nam đã được Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế đồng thanh biểu quyết chấp thuận trong phiên họp khoáng đại sáng ngày thứ sáu 10 tháng 9 năm 2004 tại Tromso, nước Na Uy. Nhân dịp này, chúng tôi trích đăng lại lời trình bày trước đây của nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt khi được hỏi "Vì sao phải có Quyết Nghị về Việt Nam"" :
" Phải có Quyết Nghị về Việt Nam để vạch trần trước công luận bản chất bất lương, vô liêm sĩ và cực kỳ hung hiểm của chế độ Việt cộng khi mà tình hình Nhân quyền càng tồi tệ và trầm trọng. Nhiều cuộc bắt giam độc đoán, nhiều hành động trấn áp vô nhân đạo, nhiều vụ án bất công, phi pháp, rập khuôn theo công lý thời bạo chúa sô viết Staline, nhằm khủng bố, bao vây, cô lập và đày đọa những người có can đảm đòi hỏi thực thi những quyền tự do dân chủ và bài trừ quốc nạn tham nhũng.
Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì không thể ngồi yên trước tình cảnh nguy bách của nhiều tù nhân bị sa sút sức khoẻ hoặc lâm bệnh nặng mà không được điều trị khẩn cấp. Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì không thể câm nín sau khi nghe thấy tiếng kêu thương, cảm nhận được nỗi đau buồn, niềm phẫn uất của nhiều gia đình Việt Nam đang gánh vác một phần đại khổ nạn của dân tộc. Có những người mà chúng ta không bao giờ quên tên, như bà Nguyễn Thị Kim Chung, người mẹ của tù nhân Lê Chí Quang; bà Trần Thị Quyết, người mẹ của tù nhân Nguyễn Khắc Toàn; bà Vũ Thúy Hà, các cháu Phạm Vũ Anh Quân và Phạm Vũ Duy Tân, người vợ và hai đứa con của tù nhân Phạm Hồng Sơn; bà Bùi Thị Kim Ngân, các cháu Nguyễn Vũ Thanh Hà và Nguyễn Vũ Thuần Linh, người vợ và hai đứa con của tù nhân Nguyễn Vũ Bình; bà Đỗ Thị Cư, người vợ của tù nhân Phạm Quế Dương; bà Dương Kim Hợp, người vợ của tù nhân Trần Dũng Tiến; bà Nguyễn Thị May, người vợ của tù nhân Nguyễn Đình Huy; bà Dương Thị Tâm Vấn, người vợ của tù nhân Nguyễn Đan Quế, v.v. (...).
Phải có Quyết Nghị về Việt Nam vì hội viên Văn Bút Quốc tế từ khắp năm châu mong muốn lên tiếng bênh vực những nạn nhân mà họ chưa gặp mặt một lần nào. Họ chỉ biết đó là những văn thi hữu, nhà báo, học giả, trí thức Việt Nam chân chính, mà tiếng nói bị tước đoạt, ngòi bút bị bẻ gãy, tác phẩm bị tịch thu, thân thể bị nhục hình, mạng sống bị đe dọa và thân nhân liên lụy bị sách nhiễu, hăm he, trừng phạt (...)".
Sau đây là bản Việt ngữ của Nguyên Hoàng Bảo Việt (thành viên Ủy ban Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù/Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại và hội viên Trung tâm Âu châu/Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại). Tiếp theo là nguyên văn Pháp ngữ. Bản Anh ngữ sẽ được phổ biến trong Bản Tin kỳ tới.
Được biết phái đoàn Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tại Đại Hội đã tích cực ủng hộ Quyết Nghị này.
Toàn Văn Quyết Nghị về Việt Nam
Quyết Nghị về Việt Nam do Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại (Centre PEN Suisse Romand) soạn thảo và đề nghị, với sự tán trợ của các Trung tâm Văn Bút Algérie, Anh, Ba Lan, Bỉ Pháp thoại, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Hung Gia Lợi, Melbourne, Mễ Tây Cơ, Nga, Phần Lan, San Miguel de Allende, Slovaquie, Thụy Sĩ Đức thoại, Thụy Sĩ Ý thoại và Réto-Romanche, Trung Hoa Độc Lập, Việt Nam Hải Ngoại và Ý Đại Lợi.
Hội Đồng Đại Biểu Văn Bút Quốc Tế, họp Đại Hội Thế Giới kỳ thứ 70 tại Tromso, Na Uy, từ ngày 6 đến 12 tháng 9 năm 2004,
Nhắc lại rằng trong tháng hai và tháng ba năm 2004, Văn Bút Quốc Tế đã mở một cuộc vận động toàn cầu - Focus on Vietnam/Regards sur le Vietnam - soi xét để cảnh báo công luận về sự tăng cường đàn áp quyền tự do phát biểu của nhà cầm quyền Việt Nam. Tháng 11 năm 2003, một Quyết Nghị về Việt Nam đã được thông qua tại Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế kỳ thứ 69 ở Mễ Tây Cơ. Quyết Nghị đòi phóng thích tất cả những người bị bắt giam độc đoán hoặc bị kết án tù trái với tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là những người cầm bút, vì lẽ chế độ Hà nội vi phạm quyền của các nạn nhân được tự do bày tỏ quan điểm, viết văn, sưu tầm, tiếp nhận, lưu hành và phổ biến tin tức trên mạng lưới Internet, cũng như quyền được tự do thành lập và gia nhập hội đoàn;
Phàn nàn rằng cho đến nay, không thấy có chút cải thiện nào trong tình cảnh của các nhà văn, nhà báo và trí thức bị giam cầm hoặc ngược đãi ở Việt Nam. Số phận của họ thật đáng lo ngại vô cùng. Chỉ có nhà báo Trần Dũng Tiến, giáo sư Trần Khuê, nhà viết quân sử Phạm Quế Dương và ba người cháu của linh mục Nguyễn Văn Lý coi như được phóng thích sau khi ở mãn hạn tù. Ngoài ra, bị bắt hồi tháng 2 năm 2002 và bị phạt 4 năm tù và 3 năm quản chế hồi tháng 11 năm 2002, nhà luật học Lê Chí Quang cũng chỉ được phóng thích vào tháng 6 năm 2004 vì lý do sức khoẻ. Thật vậy, ông Lê Chí Quang đau thận nặng và bị viêm loét ở bộ phận tiêu hóa, có thể rủi ro chết trong tù;
Bày tỏ sự kinh ngạc và công phẫn trước bản án tù áp đặt bất công đối với nhà báo Nguyễn Vũ Bình (35 tuổi), nguyên cộng sự viên tạp chí chính thức của đảng cộng sản trong 10 năm và thành viên của Hội Công dân chống Tham nhũng (bị cấm hoạt động). Tháng 9 năm 2002, ông Nguyễn Vũ Bình bị bắt rồi mãi đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 thì mới bị xử 7 năm tù và 3 năm quản chế. Ông bị trừng phạt vì đã phổ biến trên mạng lưới Internet những bài ông viết không được kiểm duyệt, trong đó có bản điều trần về những sự vi phạm nhân quyền. Ngày 5 tháng 5 năm 2004, sau khi tòa phúc thẩm giữ y bản án sơ thẩm, ông Nguyễn Vũ Bình đã tuyệt thực trong hai tuần lễ để đòi đưa vụ án lên tòa tối cao và đòi vợ ông phải được quyền thăm nom ông. Cũng bày tỏ sự kinh ngạc và công phẫn tương tự trước bản án tù của nhà báo Nguyễn Đan Quế (62 tuổi). Sự bắt giữ bác sĩ Nguyễn Đan Quế đầu tháng 3 năm 2003 có dính dấp đến một thông cáo do ông phổ biến để tố cáo rằng tại nước ông không hề có quyền tự do phát biểu và tự do báo chí. Ngày 29 tháng 7 năm 2004, sau một phiên tòa thiếu công bằng, ông đã bị kết án 30 tháng tù. Bị bệnh viêm loét nặng ở bộ phận tiêu hóa, sạn thận và áp huyết cao, bác sĩ Nguyễn Đan Quế từng trải qua 18 năm tù giữa những năm 1978 và 1998 vì những ý kiến mà ông đã phát biểu;
Tuyên bố ưu tư và lo ngại sâu xa về tình trạng sức khoẻ giảm sút tệ hại của nhiều tù nhân, gồm có nhứt là những người lớn tuổi. Họ đau yếu vì các chứng bệnh gây ra bởi những điều kiện lao lung khắc nghiệt, thiếu dinh dưỡng, ốm đau không được chữa trị, chế độ tù khổ sai và nhiều năm dài bị giam cầm hoặc lưu đày. Trong số những nạn nhân đó có nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang (87 tuổi) và Thích Quảng Độ (76 tuổi), nhà báo kiêm tiểu thuyết gia Nguyễn Đình Huy (72 tuổi) và nhà trí thức Trần Văn Lương (64 tuổi);
Lên án sự tiếp tục giam nhốt ông Trần Văn Lương và linh mục Nguyễn Văn Lý, cũng như tiếp tục quản thúc hòa thượng Thích Huyền Quang tại tu viện, mặc dù có các Quan Điểm của Ban Hành Động Liên Hiệp Quốc chống Giam Cầm Độc Đoán. Cần nhắc lại, cơ quan đặc nhiệm thuộc Ủy Hội Nhân Quyền đã tuyên cáo rằng sự tước đoạt quyền tự do của ông Trần Văn Lương, linh mục Nguyễn Văn Lý và hoà thượng Thích Huyền Quang là độc đoán vì biện pháp đó vi phạm Điều 19 của Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới về Nhân Quyền và Điều 19 của Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị. (ông Trần Văn Lương/bản Quan Điểm số 13/1999/Việt Nam, linh mục Nguyễn Văn Lý/bản Quan Điểm số 20/2003/Việt Nam và hòa thượng Thích Huyền Quang/bản Quan Điểm số 4/2001/Việt Nam);
Đòi nhà cầm quyền Việt Nam :
1. phóng thích tức khắc và vô điều kiện tất cả những nhà văn, nhà báo và trí thức còn bị giam cầm hoặc quản chế chỉ vì đã hành sử ôn hòa quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến của họ. Trong số những tù nhân đó có các ông Nguyễn Đình Huy và Trần Văn Lương, linh mục Nguyễn Văn Lý, nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, các ông Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Đan Quế, thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và ông Nguyễn Xuân Tụ;
2. chấm dứt tất cả những biện pháp sách nhiễu, hăm he và dọa nạt đối với thân nhân của họ;
3. bảo đảm cho tù nhân quyền được gia đình thăm nom, được săn sóc và cung cấp thuốc men đầy đủ khi đau ốm. Và ở vào trường hợp khẩn cấp, quyền được điều trị tại một y viện chuyên khoa trong lúc chờ được phóng thích;
4. tôn trọng các nguyên tắc và quyền căn bản được nêu rõ trong Tuyên Ngôn Toàn Thế Giới về Nhân Quyền, gồm cả Điều 19 bảo đảm quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến.
Gửi ý kiến của bạn